Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

Một cô gái đánh cọp ngay lễ mở chợ Bến Thành 1914

 Hàng ngàn bà con Sài Gòn lẫn dân Nam kỳ lục tỉnh đã tận mắt coi trận đấu có lẽ chưa từng có trên thế giới ngay lễ khai thị chợ Bến Thành tháng 3-1914: một cô gái giỏi võ Việt vờn nhau với một con cọp đang gầm rú liên hồi. 
Một cô gái đánh cọp ngay lễ mở chợ Bến Thành 1914
Chợ Bến Thành năm 1914 - Ảnh tư liệu
​Chợ Bến Thành là ngôi chợ lớn giữa Sài Gòn. Ngôi chợ này do một hãng thầu của Pháp mang tên Brossard et Maupin xây dựng, khánh thành vào tháng 3-1914.
Chính quyền đương thời đã tổ chức lễ khánh thành chợ gọi là lễ khai thị chợ Bến Thành mới, mà báo chí thời đó gọi là “Tân Vương Hội”, gồm các hoạt động vui chơi kéo dài ba ngày đêm 28, 29 và 30-3-1914 với hơn 100.000 người ở Sài Gòn và các tỉnh đổ về.
 "Xem được lễ khai thị một lần chết cũng sướng"
Trước đó, ban tổ chức lễ khai thị chợ Bến Thành mới đã thông báo khắp lục tỉnh Nam kỳ. Các thương gia người Hoa, người Ấn... nghe thông tin đã thi nhau đổ xô tới giành mua sạp ở chợ Bến Thành mới để bán thuốc lá, tơ lụa, thực phẩm...
Ngày khai thị, người các tỉnh từ miền Đông Nam kỳ tới miền Tây Nam kỳ đã nô nức hẹn nhau mua sắm và thăm cảnh chợ Bến Thành mới. Dân lục tỉnh vui vẻ bảo nhau: "Xem được lễ khai thị một lần chết cũng sướng".
Lễ hội tổ chức rầm rộ. Ngày khai trương, sáng hôm khai mạc có múa lân, thao diễn võ thuật, nhạc bát âm và có cả ban nhạc của nhà binh Pháp tới hòa nhạc giúp vui.
Tối khai trương có pháo bông, xe bông, đèn xanh đỏ giăng xung quanh chợ sáng trưng, người đi lại đông hơn ngày tết. Lễ khai thị có cả hát bội không lấy tiền giàn, không bán ghế gọi là hát thưởng để cho công chúng coi chơi giải trí…
Một cô gái đánh cọp ngay lễ mở chợ Bến Thành 1914
Chợ Bến Thành năm 1921, bảy năm sau ngày khai thị - Ảnh tư liệu
Tiết mục độc đáo nhất lễ khai thị: con gái đấu với cọp
Quyển sách Những môn võ bí truyền trên thế giới nguyên tác tiếng Anh (John F. Gilbey, bản dịch tiếng Việt của hai tác giả Lạc Hà và Phạm Xuân Thảo, do nguyệt san Võ Thuật xuất bản tại Sài Gòn năm 1970) ghi câu chuyện một cô gái giỏi võ Việt đã đánh hạ một con cọp dữ tại lễ khai thị chợ Bến Thành năm 1914.
Một cô gái đánh cọp ngay lễ mở chợ Bến Thành 1914
Bìa sách Những môn võ bí truyền trên thế giới của John F. Gilbey 
Hàng ngàn người dự khai thị đã dự khán trận đấu có lẽ chưa từng có trên thế giới: đấu với cọp là một cô gái.
Tác giả bài viết không ghi tên cô gái mà chỉ cho biết rằng đây là người con gái duy nhất của ông Ất, thường gọi là ông Hai Ất.
Ông này cùng với người em trai là ông Ba Giá vốn là hai bậc giỏi võ của vùng đất Tân Khánh Bà Trà (nay là P.Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên và P.Bình Chuẩn, thị xã Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương).
Ông Ất và ông Giá nổi tiếng với bao phen đánh cọp ở vùng rừng rậm Đông Nam kỳ vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, với danh hiệu “Cọp Bàu Lòng, Võ Tòng Tân Khánh”.
Từ lúc đến Sài Gòn, nhiều người Pháp đã nghe nói nhiều về tài nghệ đánh cọp của ông Ất, ông Giá, nhưng bán tín bán nghi nên chính quyền Pháp ở Sài Gòn lúc ấy đã gởi thư mời ông Ất, ông Giá trổ tài đánh cọp trong dịp lễ khai thị chợ Bến Thành mới.
Đây là con cọp vừa bẫy được trong cuộc khai hoang lập đồn điền trồng cao su ở miệt rừng rậm phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một (nay thuộc tỉnh Bình Phước).
Ông Ất lúc bấy giờ đã bước vào tuổi lục tuần (tức 60 tuổi), vẫn còn rất tráng kiện.
Nhưng ông đã quyết định không tham dự cuộc đấu tranh với con cọp dữ, mà nhường lại cho người con gái rượu của ông.
Có người lo hỏi con gái của ông có đánh cọp được không, ông lắc đầu và mỉm cười bảo rằng ông biết bản lĩnh của con gái ông sẽ làm cho người Pháp phải kính nể người Việt.
Để mọi người an tâm, ông đã nói thêm nếu có điều bất trắc thì ông sẽ nhảy vào liền, quyết không để cho con bị hại…
Một cô gái đánh cọp ngay lễ mở chợ Bến Thành 1914
Một thế đánh lao của môn phái Tân Khánh Bà Trà - ngọn lao tương tự ngọn lao cô gái đánh cọp ngày khai thị chợ Bến Thành - Ảnh: Hồ Tường
Cuộc đấu kinh khủng từ sáng tới trưa
Cuộc đấu giữa một cô gái với cọp khởi từ ban mai mãi đến giờ ngọ mới chấm dứt. Con gái của ông Ất nai nịt gọn ghẽ, đầu vấn tóc, đôi tay sử dụng một ngọn lao dài đầu bịt sắt bén nhọn mạnh mẽ bước vào khu vực thi đấu với ác thú.
Con cọp trông thấy, gầm to dữ dằn rồi nhảy xổ tới, với hai chân trước chụp phủ xuống đầu đối thủ…
Con gái ông Ất nhanh nhẹn nhảy sang một bên để tránh nanh vuốt của cọp. Cọp vồ hụt, gầm lên những tiếng rợn người, đập đuôi và tiếp tục nhảy tới tấn công bằng những đòn vuốt tát liên tiếp vào người cô gái.
Người con gái giỏi võ Việt nhanh hơn thú dữ khi nhảy qua, nhảy lại, tấn tấn, thối thối biến hóa khôn lường, khiến con cọp vồ chụp, tát trái, tát phải đều hụt. Ác thú gầm thét liên hồi.
Sức gái không thể hạ cọp trong giây lát mà phải đánh giằng dai để tiêu hao sức cọp. Cô gái đã xoay xở rất nhanh, khi thọc ngược ngọn lao để tránh cọp phủ, thoạt tả, thoạt hữu, thoạt trước, thoạt sau, luôn luôn nhanh nhẹn để tránh nanh vuốt cọp dữ.
Qua mấy giờ đối đầu giữa người và ác thú, con cọp bị trúng những ngọn lao của cô gái đâm vào người ra máu nhiều kiệt sức, xoay trở chậm chạp.
Đúng lúc này, người con gái của ông Ất đã sử dụng ngọn lao thật tài tình, nhắm ngay yết hầu cọp đâm suốt.
Cuộc đấu kết thúc đúng ngọ - 12g trưa.
Cô gái đánh cọp tên Võ Thị Vuông
... Các bậc tiền bối xứ võ Tân Khánh Bà Trà cho biết người con gái đánh cọp tại chợ Bến Thành năm 1914 có tên đầy đủ là Võ Thị Vuông, con thứ năm của thầy Hai Ất - Võ Văn Ất.
Ngày nay, trên vùng đất bên cạnh làng võ Tân Khánh Bà Trà vẫn còn mang tên là “Truông Bà Năm Vuông”, bởi trước đây vùng này rừng rậm gọi là truông. Đây cũng là nơi bà Năm Vuông (con gái của ông Hai Ất) từng đánh tan một lũ cướp cạn chỉ với một cây đòn gánh trong tay.


Bạch Thái Bưởi: 'Cậu ký' đường thủy

Bạch Thái Bưởi được coi là một doanh nhân kiệt xuất của đất Việt. “Ông vua đường thủy” này đã khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng.
Bạch Thái Bưởi: "Cậu ký" đường thủy
Ở nước ta, lịch sử đã ghi lại sự phát triển rất sớm của các ngành nghề thủ công nghiệp, tuy nhiên đó chỉ là những ngành nghề thủ công quy mô nhỏ mà người quản lý thường là chủ gia đình. Đến thời kỳ Pháp thuộc, công nghiệp đã có bước phát triển. Tuy phần lớn DN nằm trong tay chủ tư bản Pháp, nhưng cũng đã xuất hiện những doanh nhân người Việt thành đạt, có ý thức dân tộc, tiêu biểu là Bạch Thái Bưởi. Trong hàng “tứ đại gia” giàu có nhất nước vào những năm đầu của thế kỷ XX (Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi), Bạch Thái Bưởi (1874-1932) được coi là một doanh nhân kiệt xuất của đất Việt. “Ông vua đường thủy” này - như người ta xưng tụng - đã khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng.
"Cậu ký" lập nghiệp
Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nông dân nghèo, họ Đỗ tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ sinh sống bằng nghề bán hàng rong. Lúc ấy có một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó, ông có cơ hội ăn học. Bạch Thái Bưởi được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Rồi ông xin làm chân ký lục (nhân viên thư ký) cho một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với một hãng thầu công chánh. Chính ở những nơi này, cậu ký Bưởi đã học được cách tổ chức, quản lý sản xuất và tiếp xúc với thiết bị, máy móc.
Vào làm công cho người Pháp, với vốn liếng tiếng Pháp khá thông thạo nên năm 21 tuổi, Bạch Thái Bưởi được Phủ Thống sứ Bắc kỳ chọn làm người giới thiệu sản phẩm gian hàng tại hội chợ Bordeaux (Pháp) năm 1895. Qua chuyến đi này, ông được mở rộng tầm mắt, hiểu biết về kỹ thuật văn minh phương Tây cũng như nghệ thuật kinh doanh làm giàu. Là một thanh niên không chịu an phận, đây là cơ hội ngàn vàng tạo niềm phấn kích, khiến ông quyết tâm đi vào con đường kinh doanh. Vì vậy khi về nước, ông liền xin thôi việc và bắt tay xây dựng cơ nghiệp riêng.
Nhà quản lý chợ tiền bối
Khi người Pháp xúc tiến việc mở đường sắt nối liền Bắc-Nam, nhận thấy nhu cầu tà-vẹt gỗ rất lớn, Bạch Thái Bưởi dốc hết vốn liếng dành dụm bấy lâu hùn với một người Pháp vào việc lãnh thầu cung cấp tà-vẹt cho công trình này. Suốt 3 năm ròng, ông lùng khắp rừng sâu, lũng thấp tìm cho được gỗ thật bền, thật tốt để đáp ứng yêu cầu, gây uy tín với người Pháp. Sau vụ làm ăn này, ông được số tiền lời trên mấy vạn.
Sau đó, ông xin phép mở dịch vụ cầm đồ ở Nam Định. Xưa nay, cầm đồ là lĩnh vực mà người Tàu độc quyền thao túng. Để cạnh tranh với họ, ông phải đem tất cả tài tổ chức, kinh nghiệm ra đối phó. Nhân viên toàn người Việt, lại ăn nói, cư xử nhã nhặn, tiền chịu lời phải chăng, cho nên dù bị nhà cầm quyền làm khó dễ đủ điều, thương khách người Hoa chờ ông vỡ nợ…, nhưng khách hàng của ông vẫn ngày một đông.
Thừa thắng, ông lãnh thêm việc thầu thuế chợ ở Vinh (1906-1913), ở Nam Định (1906-1909), ở Thanh Hóa (1907-1909). Ngành in ấn vốn là nghề hoàn toàn mới lạ đối với ông, nhưng khi thấy xã hội có nhu cầu, ông vẫn bỏ tiền ra mở “Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi” (sau là Đông Kinh ấn quán), xuất bản tờ “Khai hóa nhật báo” nhằm cổ động phong trào thực nghiệp ở nước ta.
"Vua" sông nước Bạch Thái
Năm 1909, với vốn liếng, kinh nghiệm làm ăn trong những năm qua, Bạch Thái Bưởi quyết tâm lao vào một lĩnh vực kinh doanh mới: vận tải đường sông. Chính từ đây, ông vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh, trở thành “Vua sông biển Đông Dương” và là một trong “tứ đại gia” lừng lẫy thời đó.
Đầu tiên, Bạch Thái Bưởi thuê lại ba chiếc tàu Phi Phụng, Phi Long, Khoái Tử Long của một người Pháp là R.Marty vừa hết hạn hợp đồng với nhà nước. Ba chiếc tàu của ông chạy hai tuyến Nam Định-Hà Nội và Nam Định-Bến Thủy.
Vào nghề sông nước, ông phải đương đầu với các đối thủ người Pháp, Hoa có thế lực mạnh, lại giàu kinh nghiệm hơn nhiều lần. Đặc biệt là việc ông cạnh tranh quyết liệt với người Hoa. Giới Hoa thương lúc đầu rất ngạc nhiên khi thấy một người Việt dám lao vào vùng “cấm địa” của họ. Về sau, họ mới lo sợ, kết hợp với nhau để loại trừ ông. Cuộc tranh đua rất căng thẳng: ông hạ một giá, họ hạ hai giá; ông đãi khách uống trà, họ thết khách thêm bánh ngọt. Giá tàu từ Nam Định lên Hà Nội: trước là 40 xu, nay còn 5 xu… So với các thương gia người Hoa, tình thế của ông thật nguy ngập, mướn ba chiếc tàu, mỗi tháng trả 2.000 đồng, mà mỗi chuyến chỉ thu được 20 đồng.
Chính lúc cực kỳ nguy ngập đó, Bạch Thái Bưởi đã sử dụng thế mạnh tinh thần: "Vật chất khó đương đầu thì dùng đòn tâm lý". Ông vận động, kêu gọi mọi người ủng hộ công cuộc kinh doanh của người Việt, “ta về ta tắm ao ta”. Ông tung ra những đoàn diễn thuyết trên các bến tàu, nêu rõ những thiệt thòi của người Việt, cổ vũ tinh thần đồng bang. Bạch Thái Bưởi còn treo một cái ống trên tàu, để ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích, bỏ tiền vào, giúp cho chủ tàu đỡ phần lỗ lã, đủ sức cạnh tranh. Kết quả hành khách đều bỏ tàu Hoa mà đi tàu Việt.
Cuối cùng nhờ vậy ông đã thắng. Đội tàu của ông không những vượt qua sóng gió mà còn lớn mạnh, được bổ sung bằng những đội tàu của công ty Pháp, Hoa bị phá sản như: Marty d’Abbadie, Desch Wanden… Năm 1915, ông còn mua lại xưởng đóng và sửa chữa tàu của R.Marty.
Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều nơi. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Định vào Hải Phòng và đặt tên cho hãng là “Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty”, với lá cờ hiệu màu vàng có hình mỏ neo và ba sao đỏ.
Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại sáu chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Con tàu Bình Chuẩn dài 42m, rộng 7,2m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, động cơ compound 450 mã lực, chạy bằng hơi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải lý/giờ. Tàu Bình Chuẩn chạy chuyến đầu tiên từ Hải Phòng cập bến Sài Gòn ngày 17/9/1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giới công thương Sài Gòn lúc đó.
Công ty của Bạch Thái Bưởi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore…Nhưng đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930, khi ấy công ty có trên 40 con tàu, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu. Văn phòng và chi nhánh của công ty có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gòn…
"Vua mỏ nước Việt"
Dường như với Bạch Thái Bưởi : “Chiến thắng không hiểm nguy thì chiến thắng không vẻ vang”. Cho nên khi đã thắng kẻ có tiền bạc, ông lại muốn ăn thua với kẻ có nhiều quyền thế. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay người Pháp, vậy mà ông vẫn liều mạng xông vào trận địa này. Năm 1928, Bạch Thái Bưởi đem hết tài sản, dốc vào việc khai mỏ. Nhờ tài khéo léo và mưu mẹo, ông được cấp phép khai mỏ than ở vùng Quảng Yên. Ông nhận thức rằng: muốn hơn người Pháp trong việc khai mỏ cần phải có người điều hành giỏi chuyên môn, thấu đáo kỹ thuật. Cho nên ông nhờ người thân tín ở Pháp, tuyển dụng ở các trường kỹ thuật những người có tài năng về Việt Nam làm việc. Hoạt động như vậy, không bao lâu, than của ông chất thành núi (đến năm 1945 mới bán hết), ông trở thành “Vua mỏ nước Việt”.
Với đầu óc thực tế, tầm mắt nhìn xa, ông còn dự định tạo dựng nhiều công trình như: xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải Phòng, nhưng tiếc là vì hoàn cảnh, vì chiến tranh, nên ông không thực hiện được.
"Có Bưởi thì không có Robin"
Mặc dù tiếp xúc thường xuyên với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của người phương Tây, nhưng chưa bao giờ Bạch Thái Bưởi đánh mất “cội nguồn dân tộc” của mình. Chẳng hạn, khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi… Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế lý tài, ông bị Toàn quyền Robin đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”, ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin”.
Xuất thân từ tầng lớp nghèo khó, ông luôn quan tâm đến đời sống của giới thợ thuyền. Ngoài chế độ an sinh dành cho các nhân viên của mình, ông còn giáo dục con cái lòng quý trọng những người cần lao, nghèo khó. Các con đến tuổi trưởng thành đều được ông cất giao công việc trên các bến tàu hay các khu mỏ… Thậm chí, cô con gái học ở Hà Nội, nghỉ hè về, ông cũng dẫn theo để tập việc, ghi chép sổ sách, xét hồ sơ trợ cấp cho học sinh nghèo có chí du học.
Nếu Lương Văn Can vạch ra 10 nguyên nhân làm các DN Việt Nam không phát triển được, thì chính Bạch Thái Bưởi đã lấp đầy những khiếm khuyết đó bằng những tôn chỉ nghiêm túc trên thương trường: thương phẩm, thương hội, tín thực, kiên tâm, nghị lực, trọng nghề, thương học, giao thiệp, tiết kiệm và coi trọng hàng nội hóa.
Ngày 22/7/1932, một cơn đau tim đã vật ngã “Nhà DN bền chí, quả cảm bậc nhất của nước Việt, ở đầu thế kỷ XX”. Sau hơn 20 năm ngang dọc trên thương trường, Bạch Thái Bưởi qua đời tại Hải Phòng để lại cho lịch sử doanh thương Việt Nam một tên tuổi đã trở thành huyền thoại.


Nhớ về ông - Luật sư Phan Văn Trường

 Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, ông đã nỗ lực phấn đấu học hỏi rất nhiều để trở thành luật sư. Có thể nói thời điểm đó hai chữ “luật sư” đối với người dân An Nam còn quá đỗi xa lạ…. Khi ấy người dân “thấp cổ bé họng” hầu như không có quyền được nói, quyền được đấu tranh pháp lý…
Luật sư Phan Văn Trường (1876 - 1933)
Là một người yêu nước, có học thức uyên thâm, hiểu biết tình hình của đất nước nên ông đã theo học ngành luật để rồi trở thành vị luật sư đầu tiên của đất nước Việt Nam.
Quá trình học của ông là quãng thời gian dài đầy gian truân vất vả… Mùa đông năm 1908 ông từ giã quê hương, sang Marseille làm chân phụ giảng tiếng Việt tại trường Ngôn ngữ Phương Đông của Pháp. Vốn nhanh nhẹn, làm việc chăm chỉ, ông vừa dạy vừa ghi danh học Luật và Văn khoa. Vài năm sau, ông thi đỗ cử nhân hai ngành cùng một lúc.
Năm 1912, ông tham gia đoàn luật sư Paris và hành nghề ở Tòa Thượng thẩm. Chủ nhiệm đoàn luật sư là một người Pháp tiến bộ, rất tin tưởng tài năng và đức độ của ông, kính trọng một luật sư người Việt xuất sắc, ham học.
Cùng năm 1912, ông cùng cụ Phan Chu Trinh sáng lập “Hội đồng bào thân ái” - hội người Việt đầu tiên trên thế giới. Lúc này ở Pháp, mật thám đã theo dõi hai ông Phan, nghi là có liên hệ với Việt Nam Quang Phục Hội của Cường Để.
Năm 1914, lợi dụng tình trạng chiến tranh, thực dân Pháp âm mưu buộc tội hai cụ Phan chống lại nước Pháp. Ngày 12/9/1914 ông bị bắt giam ở nhà lao quân đội Cherche Midi rồi bị đưa ra tòa án binh xét xử. Ông phản đối kịch liệt việc bắt giam vô cớ, bác bỏ mọi lời buộc tội. Nhờ hội Nhân quyền cùng Đảng Xã hội tích cực vận động đòi trả tự do cho ông, nên đến tháng 7/1915 Chính phủ Pháp phải thả ông ra.
Năm 1918 ông về Paris, tiếp tục học thêm và làm luận văn tiến sĩ Luật. Ông được đánh giá cao và hội đồng giáo sư trường Luật công nhận tiến sĩ xuất sắc, ông trở thành tiến sĩ luật hình đầu tiên ở Việt Nam.
Tiếp tục con đường cách mạng, đấu tranh vì độc lập tự do của nước nhà, ông được người đời ngưỡng mộ bởi là một tấm gương về học tập, sống và làm việc giữa trời Tây mà dám trực diện chống thực dân Pháp. Ông khôn khéo sử dụng sự am hiểu pháp luật và Pháp tịch làm “lá chắn” trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Năm 1919 diễn ra hội nghị Hòa Bình ở Versaile, ông cùng các nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Thế Truyền viết bản yêu sách 8 điểm. Ông được coi là “kiến trúc sư” của văn bản này - một văn bản có giá trị khiến Chính phủ Pháp phải bối rối.
Cuối năm 1923 ông từ bỏ tất cả về nước tiếp tục đấu tranh cho độc lập dân tộc. Ông kết hợp giữa pháp lý với báo chí để chiến đấu. Ông cùng Nguyễn An Ninh xuất bản báo Chuông rè (La Cloche Fêlée) và Nước Nam (L'Annam) bằng tiếng Pháp tại Sài Gòn. Ông tích cực đấu tranh chống các chính sách của thực dân Pháp, đòi dân chủ, đeo đuổi việc bác bỏ chủ nghĩa "Pháp - Việt đề huề" của Đảng Lập hiến.
Ông còn đứng ra tổ chức Thanh niên Cao vọng. Ông cũng đã cho đăng một số bài của các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Diễn đàn thông tin quốc tế. Đặc biệt ông là người đầu tiên đăng Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Karl Marx và Friedrich Engels trên báo.
Ngày 21/7/1927, ông bị bắt và khám nhà với tội danh "kích động dân bản xứ nổi loạn", tuy nhiên do không có bằng chứng nên ông được tại ngoại. Từ đó Phan Văn Trường không tham gia chủ nhiệm báo L'Annam mà tham gia Đoàn Luật sư Nam Kỳ.
Ngày 27/3/1928, Tòa án Sài Gòn xử tội ông 2 năm tù. Ông chống án sang Pháp. Tháng 8/1929 Tòa Thượng thẩm Paris xử y án. Ông bị giam tại nhà lao ở Pháp đến năm 1931 mới mãn hạn tù và trở về Sài Gòn. Ông lại tiếp tục đấu tranh đòi dân chủ ngay sau khi ra tù.
Năm 1933 ông quay ra Hà Nội để thăm gia đình và thị sát tình hình chính trị ở miền Bắc, nhưng ngã bệnh và qua đời ngày 22/4/1933 tại Hà Nội…
Luật sư Phan Văn Trường là luật sư tiên phong trong nghề luật sư tại Việt Nam. Với học thức uyên bác, tinh thông kim cổ Đông Tây, lòng yêu nước sâu sắc ông là 1 trong những tấm gương sáng, là niềm tự hào cho các luật sư các thế hệ sau noi theo.


Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi

Phan Khôi (1887-1959) can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Ở Việt Nam, rõ nhất là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, nếu đời sống văn học bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi lại chỉ thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ đi tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu, …) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!
Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi
Các bản tiểu sử Phan Khôi do thân nhân hoặc nhà nghiên cứu soạn thảo đã công bố thường nêu tên những tờ báo “nghe nói rằng” ông đã cộng tác, với những thời điểm được ghi nhận khá áng chừng, người ghi không kiểm định điều ghi ấy có phù hợp với cái “thực địa” là các tờ báo với các bài đăng hay không,− điều này dễ làm rối hơn là làm giàu cho bảng niên biểu Phan Khôi. Dưới đây tôi theo cách làm khác. Tôi chỉ ghi nhận những gì tôi kiểm định được trên “thực địa” báo chí.
Người ta nêu một vài sự việc như Phan Khôi đi theo Phan Châu Trinh ra Hà Nội từ 1907 để tham gia công việc của Đông kinh Nghĩa thục và Đăng cổ tùng báo. Tuy vậy, trên thực tế, phải sau đó mười năm, Phan Khôi mới bước vào nghề báo.
Năm 1918, Phan Khôi bắt đầu viết cho tạp chí Nam phong với bút danh Chương Dân. Mục Nam âm thi thoại do ông xây dựng bắt đầu xuất hiện trước công chúng từ tạp chí này và ông sẽ đem theo nó đến một vài tờ báo khác, trên đường hành nghề của mình. Ở Nam phong, ngòi bút Chương Dân bộc lộ tiềm năng của một cây bút viết cả chữ Hán lẫn chữ Việt, cả nghị luận, khảo luận lẫn sáng tác văn chương, tuy vậy, ngoài mục Nam âm thi thoại, tác giả chưa tỏ rõ được gì nhiều ở các bài mục khác.
Chỉ hơn một năm sau, Phan Khôi rời Hà Nội vào Sài Gòn. Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi cộng tác là tờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong (Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta // N.P., s. 23, tháng 5.1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7.5.1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca Đưa chồng và Nhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là lính tòng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong. Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là những bài thường thức xã hội hoặc khảo về ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (với những nội dung bài cho từng kỳ báo lần lượt là : ‒ Nước mẹ đẻ; ‒ Địa dư nước An Nam; ‒ Chính trị nước An Nam; ‒ Phong tục nước An Nam; ‒ Dân phải nộp thuế ;…) và mục Ghi chép tiếng An Nam (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12.5 đến 25.6.1919).
Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936) thì “làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc…”.(1)
Bài báo “kịch liệt quá” ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị, đăng hai kỳ báo (LTTV. 14.5 và 21.5.1919). Theo thông tin trong bài báo ấy thì trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn đã đăng toàn văn bản dịch bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: “chữ “Đông Dương tự trị” đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói “Đông Dương tự trị” là nhằm đòi thêm quyền cho mình trên cương vị quan chức Pháp lớn nhất ở Đông Dương chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là “kịch liệt quá” và buộc ông thôi cộng tác?
Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội, cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành, đồng thời cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, ‒ việc viết báo thời gian này của ông ít hiệu quả.
Vài năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, 1926-1927 ở Sài Gòn, không biết có viết cho tờ báo nào hay không; theo chính Phan Khôi, trong lời dẫn khi cho đăng bài thơ Chơi thuyền trên sông Tân Bình trên tuần báo Phụ nữ thời đàm số 3 (1. 10.1933) ‒ và Phan Cừ, Phan An (1996) (2) có lẽ đã căn cứ vào nguồn này, ‒ thì, vào năm 1927, có thể là để tránh sự truy nã, Phan Khôi phải chạy xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.
Thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lậptiếng Việt, cũng ít nhiều gắn với các tờ Quần báo hoặc Hoa kiều nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn.
Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo):”Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam”(3)
Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc ”báo chí sử” Sài Gòn những năm 1920-30, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả của khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi, Tơ vương đến thác,… lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng Thần chung từ 4.7.1929, v.v…). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng (nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố Sài Gòn) Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng “hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo”, biến nó từ chỗ “có khuynh hướng thân chính phủ” trở nên “có khuynh hướng đối lập” và “là tờ báo có rất nhiều người đọc”. (4) Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương học thuật trong nội dung tờ báo, ‒ thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,…) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, ‒ thì ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII – XVIII, kể cả Nam âm thi thoại mà những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-19, kể cả bài thơ Dân quạ đình công làm từ sau ”vụ án xin xâu” ở miền Trung hồi 1907-08, v.v…, – tất cả, Phan Khôi đều ký tắt, có khi bằng K. hoặc Kh., nhưng thường khi bằng hai chữ C.D. – hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi 1918. Việc Phan Khôi viết báo trong năm 1928 chỉ dưới các tên ký tắt hẳn có liên quan đến chính cái lý do đã khiến ông phải tạm lánh ít lâu xuống Cà Mau kể trên.
Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy, ĐPTB 28.8.1928; Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp, ĐPTB 30.8.1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là ”cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”; cạnh đó là những bài cũng phản bác “cái thuyết châu Âu sắp tan nát” của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải ”Âu hoá”, phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu // ĐPTB 26.7.1928 ; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát // ĐPTB 15.9.1928; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương //ĐPTB 27.9 và 2.10.1928 ; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà // ĐPTB 11.10.1928).
Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của ”văn hoá đọc”, khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần dẫn nhập đưa người đọc ham xem truyện tiện thể xem các quảng cáo, như là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra ”Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần do chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh ”Phụ trương thể thao” và “Phụ trương phụ nữ và nhi đồng”; những cửa mở phụ trương kiểu này sẽ trở thành thông dụng cho nhiều tờ báo ở Sài Gòn trong nhiều năm sau.
Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ (Dân quạ đình công, ĐPTB 2.6.1928 ; Cái chết của con nhà nghèo, ĐPTB 21.7.1928), bình luận văn học (Cấm sách, sách cấm, ĐPTB 1.9.1928; Thi văn với thời đại, ĐPTB 6.10.1928 ; Văn chương và văn chương của nhà báo, ĐPTB 27.10.1928); khảo chứng (Cái dốt cuả triều Huế, ĐPTB 8.5.1928; Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: “Hà Nội chánh khí ca”, ĐPTB 4.10.1928); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài (Cái thế lực của nhà văn hào, ĐPTB 5.6.1928 [nói về L. Tolstoy] ; Hồ Thích với Quốc dân đảng, ĐPTB 18.12.1928 ; Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga, ĐPTB 19.5.1928); dịch thuật văn chương (dịch bài Quan về vườn, ĐPTB 5.5.1928 của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670] ; dịch một số tác phẩm của Eroshenko (qua bản dịch chữ Hán của Lỗ Tấn); dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père (cũng qua một bản dịch chữ Hán) và cho đăng đều kỳ như một cuốn ”tiểu thuyết chánh trị”).(5)
Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử nghiệm một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong mục Câu chuyện hằng ngày do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một ”mặt nạ tác giả” (6) hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại “ảo” của nó là hệ quả kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung (1920-30). Trong việc tìm tòi cách viết tản văn cho thể hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Georges de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le Journal và L’ Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời. (7)
Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báo và Thần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc ”báo chí sử” Sài Gòn: theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả đã mô tả, mà sự thể chỉ đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên: tờ báo đang mang tên Đông Pháp thời báo bị ông chấm dứt từ ngày 22.12.1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7.1.1929, tờ báo lại ra mắt với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) đánh số từ số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở vài tờ báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra, chỉ có nhà in cũ của báo này, chuyển sang tay vợ ông Đính là bà Thạnh Thị Mậu, thì vẫn tiếp tục hoạt động. Tờ Thần chung được in tại nhà in Bảo Tồn của Diệp Văn Kỳ.
Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện có thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22.3.1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc. (8)
Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục “Câu chuyện hằng ngày” dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên ”câu chuyện hằng ngày” vẫn ở tình trạng ”cách nhật”. Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là ”câu chuyện hằng ngày” với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi và các tay quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả, khi cười cợt khi nghiêm chỉnh.
Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình chỉ từ 3.10.1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, và sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn. (9)
Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về tiềm năng “giàu hơn Nam Kỳ” của vùng Tây Kỳ (Tây Nguyên ngày nay), về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v… Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò đáng kể của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo. Chính Nguyễn Vỹ trong một cuốn sách mang tính hồi ký nhan đề Tuấn, chàng trai nước Việt (1970) đã nhớ lại sự việc này tuy ông gắn hành động ấy của Phan Khôi với tờ Phụ nữ tân văn, mặc dù trên thực tế không phải tuần báo này mà chính nhật báo Thần chung đã tổ chức cuộc thi quốc sử, cuộc thi có lẽ đã không được tổng kết trao giả, do tờ báo bị cấm rất đột ngột.(10)
Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là “đứng mũi chịu sào”(11)cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu họ Đào thường đảm nhận vai trò chủ bút thì họ Phan trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài ông viết đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2.5.1929 đến 21.4.1935 (chưa tính đến việc nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ).
Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến hiện đại hóa trong nếp sống của cư dân, trước hết là ở các đô thị. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương bình đẳng nam nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết (Việt Nam phụ nữ liệt truyện, PNTV 2.5.1929; 13.6; 4.7; 1.8; 8.8; 15.8; 12.9.1929; Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do, PNTV 12.9.1929; Chữ trinh: cái tiết với cái nết, PNTV 19/9/1929; Luận về phụ nữ tự sát, PNTV 26.9.1929; Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam) PNTV 17.10.1929; Nữ công, PNTV 24.10.1929; Hoàng đế với phụ nữ, PNTV 9.1.1930; Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình), PNTV 1.5.1930; Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ, PNTV 8.5; 15.5.1930; Thân oan cho Võ Hậu, PNTV 22.5.1930; Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi, PNTV 21.5.1931; Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh, PNTV 4.6.1931; Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay, PNTV 18.6.1931; Lại nói về tam cang với ngũ luân, PNTV 2.7.1931; Tống nho với phụ nữ, PNTV 13.8.1931; Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu, PNTV 20.8.1931; Vấn đề cải cách cho phụ nữ, PNTV 28.1.1932 ; Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan, PNTV 7.7; 21.7.1932; Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng? PNTV 14.7.1932; Thanh niên với tổ quốc, PNTV 13.10.1932; Câu chuyện lấy vợ đầm, PNTV 6.12.1934 )…
Ở khía cạnh văn học, Phan Khôi đã nhân tính chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ (Về văn học của phụ nữ Việt Nam, PNTV 2.5.1929; Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh, PNTV 2.5.1929), và văn học về đề tài phụ nữ (Văn học với nữ tánh, PNTV 9.5.1929; Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh, PNTV 6.6.1929; Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra, PNTV 23.5.1929; Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta, PNTV [11 kỳ] từ 30.5 đến 29.8.1929, v.v…).
Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim, PNTV 29.5.1930; Cảnh cáo các nhà học phiệt, PNTV 24.7.1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,… lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,… Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối và hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người em rể là Lê Dư trong chuyện nói chung chung “nước ta có quốc học”, mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến(PNTV 29.11.1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13.12.1934).
Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v…), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với đủ loại công việc, từ việc đề xuất ”viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng” (PNTV 12.6.1930), “đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam” (PNTV 26.6.1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi, PNTV 11.6.1931), phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24.3.1932),… Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong cho mình ”vai ngự sử trên đàn văn”. Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu ”tạp trở” thông tin đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn từ 23.10 đến 30.11.1930, hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò ”thày đồ” dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu ‒ phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre ‒ của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18.8 đến 29.12.1932, sau này Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).
Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ởPhụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại (Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật, PNTV 30.7.1931; Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký, PNTV 23.6.1932;Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan, PNTV 15.9.1932; Cái địa vị khôi hài trên đàn văn, PNTV 3.11.1932; Sử với tiểu thuyết, PNTV 1.12.1932; Lối văn học của bình dân, PNTV 15.12.1932), về văn chương và nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân, PNTV 4.2.1932; Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích, PNTV 18.8.1932; Cái bịnh ăn cắp của Tàu, PNTV 1.9.1932; Văn học chữ Hán của nước ta, PNTV 22.9.1932; Sách tiếu lâm đời xưa,PNTV 22.12.1932).
Tất nhiên trong số bài vở đó ta không thể quên bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (PNTV 10.3.1932),(12) bài báo đề xướng “một lối thơ mới” được coi như tín hiệu phát động phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này. Thế nhưng nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh (13) đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi “duy tân”, ”cải lương” trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1928-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào thơ mới, có tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, có văn nghị luận hiện đại mà phê bình văn học là một bộ phận. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam nhận ra vai trò này của Phan Khôi.
Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao ”học bổng phụ nữ” của Phụ nữ tân văn cho học sinh đi du học sang Pháp.
Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập. Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, ”tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa” (sđd., tr. 398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theo Huỳnh Văn Tòng, sđd., tr.411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về… Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.
Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thần chung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấp tiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này. Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủ nhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủ bút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này để cho ngòi bút ngả theo ý hướng của ông chủ Tây của tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệp người Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932, sau nhiều thay đổi thì hai ông chủ cũ của Thần chung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đã đổi chủ. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồi làm chủ bútĐuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở Hà Nội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trung lập.
Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí Đông Dương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhóm tài phiệt Octave Homberg mua các tờ Impartial và Trung lập rồi về sau bỏ rơi hai tờ ấy khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh và bước vào chính trường; sự ”bỏ rơi” này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhân dẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933 (sđd., tr. 409-413). Từ sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự ”bỏ rơi” kia là sự thực từ phía các doanh nhân ngoại kiều thì nhà nghiên cứu vẫn cần tìm hiểu thêm sự kiện từ phía giới quản trị và kinh doanh báo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, ‒ chính điều này tạo ra diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây chính là trường hợp của cả tờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trong những năm 1930.
Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13.8.1929, vai trò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạn thông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng ra cho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, có khuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ.(14) Chẵn một năm sau ngày 2.5.1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn), báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho là cũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2.5.1930 chính thức ra mắt tờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú ”bộ mới” hay ”tục bản”, không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới (chữ ”trung lập” màu đỏ với các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef). Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêng của ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không đứng trong toà soạn, tuy có lúc bài ông viết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm Những điều nghe thấy mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2.5.1930 đến 30.5.1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục này.
Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việt trong Câu chuyện hằng ngày ở Đông Pháp thời báo và Thần chung, tôi có dẫn khái niệm ”mặt nạ tác giả”, một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ “thi pháp” của cái ”tôi” trong vai lệch ở thể tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sự việc thực mà hoá ra lại gắn chặt với khái niệm ấy. Đó là từ giữa năm 1932, sau khi ”Hội chợ Phụ nữ” ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hội Dục anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sự không hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xé ra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà. Một nửa báo giới Sài Gòn do Tổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sài thành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữ tân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ Sài thành vàTrung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiến Bùi Thế Mỹ, ‒ người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúc sự việc mới phát lộ, ‒ phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi. Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tân văn, cũng thôi không còn ký tên mình đăng bài trênTrung lập nữa. Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đã để cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thế nhưng Thông Reo với chuyên mục Những điều nghe thấy thì vẫn xuất hiện đều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng, trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo đã viết một loạt bài hòa giọng với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là ”con buôn hám lợi”. Vậy là chính nhờ ”mặt nạ tác giả” đó, trang viết của Phan Khôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tên thật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không nên hoặc không thể xuất hiện.
Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập – Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến dấu mặt im lặng…). Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến…) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài Ý kiến Trung lập : Phải nói minh bạch, TL 20.6.1930, qua một loạt bài: Trung lậpxin nói choĐuốc nhà Namnghe thế nào là cái nhã độ quân tử? TL 21.6.1930;Trung lậplại nói cho Đuốc nhà Namnghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu, TL 23.6.1930; Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào? TL 24.6.1930; 4 bài nhỏ: Ai nói dối? ; Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long; Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ;“Kiến hiền tư tề yên“‒ đều in trên Trung lập ngày 25.6.1930, v.v… đến loạt bài Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi [ kỳ I – IV] từ 26.6.1930 đến 30.6.1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2.7.1930, đến kỳ XIII, 25.7.1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,…). Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nội dung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giá hơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại. Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929, chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bút chiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoan chắc là do Phan Khôi viết); có thể nghĩ rằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dung trong ý niệm. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hình dung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài Viếng mộ ông Lê Chất của Phan Khôi rồi viết rằng ”người mình có cái tật ”vì người mà bỏ lời nói” nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến”, tức là mượn một câu ở sách Luận ngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là ”đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo”, “làm xấu trong trường ngôn luận” (Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm ‘Đuốc nhà Nam’, TL 19.7.1930; Một sự buồn trong báo giới, TL 21.7; 24.7; 1.8.1930).
Một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan đề Vấn đề cải cách (TL 9.8; 12.8; 13.8; 18.8.1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: ”muốn duy tân cải cách thì phải bắt [=bắt đầu] từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước”; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.
Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được ”Phụ trương văn chương”, thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được ”Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2.5.1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2.5.1931 đến 29.5.1933 ra được cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục nhỏ như “Văn uyển” đăng sáng tác thơ, ”Giấy thừa mực vụn” đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam của Bùi Kỷ từ PTVC số 8: 20.6.1931, đến PTVC số 13 : 25.7.1931), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như "đạo văn" (Cao Minh Chiếm PTVC số 41: 13.2.1932, ”tố giác cái án đạo văn” nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47 : 26.3.1932 nhận thấy họ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48: 2.4.1932 giải rõ thế nào là “đạo văn” và xác định những trường hợp ấy không phải là “đạo văn”), hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá(15) v.v… Chính ở “Phụ trương văn chương” số 2(TL 9.5.1931) một tác giả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về ”nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận sau này vào năm 1936). Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của một cây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bài giới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như: văn học và quốc dân tính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, văn học bình dân, khái niệm ”trào lưu”, về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert, nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷ hử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai, v.v… Đây cũng là một trong số những tác giả hiện vẫn còn đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đây lẫn ở quê gốc Quảng Nam của mình.
Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũng gần gũi với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, và cũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ khác cũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về “quốc học” với Lê Dư, v.v…. Riêng ở Trung lập Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người khởi lên cuộc bài xích lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộViệt Nam tân tự điển của hội Khai trí Tiến đức, v.v…Ông không chỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệuThương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31.12.1931; số 37: 9.1.1932). “Phụ trương văn chương” của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai, v.v… Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục Những điều nghe thấy chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không có báo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiều loại đề tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chương nghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tác đương thời.
Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trên tờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từng đăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nói về văn học chữ Hán của người Việt.(16)Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.
Cũng trong những năm sống và viết báo tại Sài Gòn này, Phan Khôi còn đồng thời cộng tác với một số tờ báo ở Hà Nội. Trước hết là những bài viết có trọng lượng học thuật của ông đăng các báo trong Nam được không ít tờ báo ngoài Bắc như Ngọ báo, Đông tây, Thực nghiệp, v.v… đăng lại; thứ hai là loại bài ông viết riêng cho các báo ở Hà Nội. Đó, chẳng hạn là loạt bài trong mục Độc thư tùy bút đăng trên báo Phổ thông từ 2.9 đến 7.10.1930. Chủ bút Đông tây là Hoàng Tích Chu (1897-1933) đặc biệt ưa thích ngòi bút Phan Khôi, đưa đăng lại những bài viết tinh quái của Thông Reo (bài về “cái bót-phơi” dự đoán Phạm Quỳnh sẽ vào kinh làm bộ trưởng, bài so sánh cô Ba Trà với Nguyễn Văn Bá để trào lộng sự tiến hóa của những người nổi tiếng đất Sài Thành, v.v…), sau lần chủ nhiệm Đông tâyvào Nam gặp gỡ đồng nghiệp, hồi cuối năm 1930, người ta bắt đầu thấy Phan Khôi có những bài viết riêng cho tờ báo này, khi ấy được coi như tờ báo của giới trẻ đất Bắc. Đó là loạt bài trích thư Nguyễn Pho kể chuyện ngành Trung Hoa học ở trường Đại học bên Pháp (Đông tây, 23.5; 30.5; 3.6.1931), tiếp đó là những bài về học thuật (Đôi điều nên biết về Nho giáo, ĐT, 26.8; 2.9; 5.9; 23.9; 30.9.1931), về việc trừng trị quan lại ăn hối lộ (ĐT, 21.10.1931; 28.11.1931), nhận xét về sự thiếu vệ sinh và văn hóa đô thị nói chung của người Việt (ĐT, 14.10.1931), bàn về quyền tự do ngôn luận (ĐT, 21.11.1931; 12.12.1931), đặc biệt là loạt bài tham gia luận bàn về “vấn đề quốc học” do những tranh cãi giữa Trịnh Đình Rư và Lê Dư khởi ra. Đây là cuộc tranh luận có quy mô rộng, thu hút chú ý của nhiều học giả khắp nơi, được nhiều tờ báo trong Nam ngoài Bắc đăng tải, song những cứ điểm của cuộc tranh luận này là ba tờ: Phụ nữ tân văn vàTrung lập trong Nam, Đông tây ngoài Bắc. Phan Khôi tham gia cuộc tranh luận này chủ yếu bằng cách nêu phản đề (nước ta không có “quốc học”) (Luận về quốc học, ĐT, 12.8.1931; 15.8.1931; Nhân vấn đề quốc học, ĐT 24.10.1931; 7.11.1931; 14.11.1931; Bất điều đình,ĐT, 19.12.1931), v.v… Chính bài Một lối ”thơ mới” trình chánh giữa làng thơ, Phan Khôi cũng đưa đăng lần đầu trên Tập văn mùa xuân, một phụ trương Tết (nhâm thân 1932) của báo Đông tây ở Hà Nội, hơn một tháng sau mới cho đăng lại trên Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn.
Tháng 4 năm 1933, khi Phan Khôi từ Sài Gòn ra Hà Nội thì tờ Đông tây đã bị đóng cửa (sau số 222 ngày 25.7.1932), nhà báo Hoàng Tích Chu đã mất. Phan Khôi hầu như chỉ còn duy nhất một “cố nhân” là Thực nghiệp dân báo, lúc này bước vào năm thứ 14 nhưng đã đến hồi tàn tạ. Từ giữa tháng 5 năm ấy, ông bắt đầu tái xuất hiện trên tờ này, chủ yếu là trong vai Bướng Nhân của mục “Bướng Nhân nhật ký” (từ 25.5 đến 4.7.1933); tiếp đó, chừng như để đối phó với những thóc mách trong làng báo Hà Thành, ông bỏ mục cũ ấy lập mục mới “Chuyện dóc tổ”, nhưng chỉ sau 2 kỳ (25.8; 26.8.1933) thì chấm dứt cộng tác với Thực nghiệp dân báo.
Từ 17.9.1933, Phan Khôi bắt đầu xuất hiện trên tờ Phụ nữ thời đàm.
Tờ này vốn ra mắt từ 8.12.1930 và hoạt động như một nhật báo, thường bộc lộ quan niệm bảo thủ của giới nhà nho đất Bắc trên vấn đề phụ nữ; đến thời gian này, báo đang ở tình trạng ngắc ngoải. Nhận lời với ông bà Nguyễn Văn Đa, chủ nhân tờ này, Phan Khôi bắt tay cải tổ tờ báo, chuyển nó sang dạng tuần báo.
Với tờ tuần báo Phụ nữ thời đàm, tập mới này, Phan Khôi có 22 tuần làm việc cật lực, cả trong vai trò chủ bút, cả trong vai trò cây viết chính. Một trong những điểm chủ yếu khi ông làm tờ “nữ báo” này là tờ báo đã trình ra một thái độ xã hội cấp tiến, khác hẳn thái độ bảo thủ của tờ báo cũ, nhất là trên vấn đề phụ nữ. Hầu như số nào cũng có một bài ngắn, ký Phan Khôi hoặc P.K., nêu một khía cạnh liên quan đến nữ giới: giảng giải về “ý nghĩa thật sự của vấn đề phụ nữ ở xứ ta” (PNTĐ, 17.9.1933), nêu các việc đáng quan tâm gắn với phụ nữ và trẻ em như: giáo dục tiểu học (PNTĐ, 1.10.1933), làm sách giáo khoa (PNTĐ, 8.10.1933), lập ấu trĩ viên (PNTĐ, 22.10.1933), khuyến khích phụ nữ học nghề thuốc (PNTĐ, 12.11.1933), cổ vũ phụ nữ chơi thể thao (PNTĐ, 24.12.1933), thậm chí đề xuất việc soạn sách giáo khoa riêng cho nữ sinh trong hệ thống trường nữ học (PNTĐ, 4.2.1934). Phan Khôi cho độc giả thấy, tờ “nữ báo” do ông chủ trì dứt khoát không hùa theo dư luận chế nhạo hay lên án “gái tân thời” (PNTĐ, 29.10.1933), không bài xích chuyện khiêu vũ (PNTĐ, 17.12.1933).
Ở Phụ nữ thời đàm, tập mới, Phan Khôi tiếp tục công việc của ngòi bút bình luận thời sự với mục Dưới mắt chúng tôi; ông cũng không quên chọn dịch các sự tích nhân vật trong các truyện ký chữ Hán thời trước cho mục Chuyện cũ nước nhà. Nhưng điểm mới mẻ nổi bật ở ngòi bút ông thời kỳ này là các bài viết được gọi chung là “tiểu phê bình”, từ “tiểu phê bình về nhân vật” đến “tiểu phê bình về phong tục”, “tiểu phê bình về báo chí, sách vở”. Đó là những trang viết sắc sảo mà hầu như chỉ cây bút từng trải, lọc lõi, đầy chủ kiến mới viết nổi, vì đó là nhận xét về những nhân vật lừng danh đang sống cùng thời như Huỳnh Thúc Kháng, Đạm Phương, Nguyễn Văn Vĩnh, Diệp Văn Kỳ, …, hoặc, đó là những nhận xét nghiêm khắc nhưng xác đáng về các phong tục đất Bắc (lễ lạt, đình đám quanh năm, đánh lộn nằm vạ, v.v…).
Sau số 22 Phụ nữ thời đàm, tập mới (11.2.1934), Phan Khôi rời Hà Nội, có lẽ trở về Quảng Nam; tờ tuần báo chuyển cho Nguyễn Triệu Luật làm chủ bút, chỉ ra thêm được 4 kỳ nữa, đến số 26 (6.6.1934) thì ngừng hẳn; năm 1938 (từ tháng 8 đến tháng 12) xuất hiện Phụ nữ thời đàm tục bản, đó là một nhóm Đệ Tam dùng tờ báo này làm phương tiện tố cáo và đả kích nhóm Đệ Tứ của Huỳnh Văn Phương.
Cuối năm 1934, lại thấy Phan Khôi trở lại cộng tác với Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), góp mặt bằng mấy bài nghị luận rất đáng kể (Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến, PNTV. s. 268, 29.11.1934;Câu chuyện lấy vợ đầm, PNTV. s. 269, 6.12.1934; Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ, PNTV. s. 270, 13.12.1934; Ý kiến tôi đối với sự bỏ kiểm duyệt báo quốc ngữ, PNTV. s. 271, 20.12.1934). Nhưng đây cũng đã gần đến hồi kết của tờ báo từng gắn bó nhiều nhất với những thăng hoa trong đời làm báo của Phan Khôi. (PNTV. ngừng ở số 271; sang năm 1935 tục bản, chỉ được 2 kỳ: số 272, ngày 11.4 và số 273, ngày 20.4.1935).
Đầu năm 1935, Phan Khôi ra Huế, làm chủ bút nhật báo Tràng An. Tờ Tràng An (chữ Việt) ra 2 kỳ/tuần, là một trong hai tờ báo mới ra ở Huế từ 1.3.1935, bên cạnh tờ La Gazette de Hue (chữ Pháp) ra hàng tuần; chủ nhiệm cả hai tờ là Bùi Huy Tín. Ngoài các bài xã thuyết về thời sự xã hội ký tên Phan Khôi hoặc ký tên tòa soạn, ông còn mở nhiều mục cho các loại bài phiếm luận, tạp trở như “Có có không không”, “Nhớ đâu nói đó” , ông viết và ký Tuệ Tinh, C.D., Sao Đuôi…; mở mục “Chuyện rông” cho Hoài Thanh viết dưới bút danh Nhà Quê; rồì các mục mở cho ngòi bút của Tiêu Diêu Tử (tức Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính), cho Hương Giang Lão Nhân, Hương Giang Thiếu Niên (chưa rõ bút danh của ai), cho các cây bút trẻ như Trần Thanh Mại, Phan Nhưng, v.v… Quan hệ tốt giữa ông với cây bút trẻ Hoài Thanh từ Nghệ An vào cũng bắt đầu ở tờ báo này; chính tờ báo đã lên tiếng chúc mừng lễ cưới của người trợ bút báo mình là Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh) với cô Phan Thị Nga, con gái một y sĩ ở Hội An (Tràng an 30.9.1935); tờ báo trong thời gian Phan Khôi là chủ bút cũng là nơi đăng bài của Hoài Thanh trong cuộc tranh luận “vị nghệ thuật / vị nhân sinh”; chính báo này đã ra số đặc biệt về ngày thất thủ kinh đô 23 tháng Năm năm Ất Dậu với các bài chủ lực do Phan Khôi và Hoài Thanh viết (Tràng an, 21.6.1935)…
Bước ngoặt khiến Phan Khôi rời Tràng An có lẽ là bài Nên bài xích lối văn không thành thực (T.A., 31.12.1935; 7.1.1936) một bài phê bình văn học, chỉ ra chất sáo rỗng ở một bài văn điếu phúng, nhưng đã đụng chạm đến việc nội cung triều Nguyễn nên tác giả của nó buộc phải rời vị trí chủ bút Tràng An.
Nhưng Phan Khôi chưa rời thành phố Huế. Đầu tháng 8/1936, ông cho ra mắt tờ tuần báo Sông Hương, tờ báo duy nhất trong đời mình, Phan Khôi là người sáng lập, là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Ông duy trì tờ báo qua 32 kỳ, tạm ngừng sau số ra ngày 27.3.1937; ít lâu sau ông bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu, vẫn dưới tên Sông Hương “do Phan Khôi sáng lập”, báo được tục bản và hoạt động trong 12 kỳ nữa (19.6.1937 – 14.10.1937).
Trong 32 kỳ Sông Hương, Phan Khôi đã tập hợp được khá đông những cây bút khác nhau, nhiều nhất là những cây bút thiên về nghị luận, dù viết khảo cứu hay phê bình, văn học hay sử học: Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Trương Tửu, Thiếu Sơn, Trần Thanh Mại, Lê Tràng Kiều, Phan Thị Nga, Từ Ngọc, Phan Nhưng, v.v…, cạnh đó là một số cây bút sáng tác: Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư, Nam Trân, Nguyễn Đình Miến, Xuân Tâm, Xuân Diệu, Lan Viên…
Về phần mình, Phan Khôi viết nhiều loại bài mục, từ các bài nghị luận về thời sự xã hội đến các bài nhỏ, nhằm lấp kín các góc trống mà chỉ những người làm thứ báo sắp chữ in khuôn mới biết rõ. Ông tiếp tục các đề tài sử học, ngữ học quen thuộc; ông cũng tạo những mục mới: Sử liệu từng mảnh vụn, Lý luận của tôi, bên cạnh những mục ông từng viết ở các báo khác: Ngự sử đàn văn, Chương Dân thi thoại…(17) Ông cũng cho in lại tập bài giảng Hán văn độc tu từng in trên Phụ nữ tân văn năm 1932.
Có thể, khổ báo rộng (49 x 33 cm) của Sông Hương là hơi trái với tính chất một tờ báo thiên về sự “học vấn và tri thức”, song đó chưa hẳn là lý do khiến tờ báo khó tồn tại dài ngày, bởi sự tồn tại “ngắn hạn” là nét tiêu biểu của rất nhiều ấn phẩm định kỳ cùng thời đại với Sông Hương.
Thời gian ở Huế, Phan Khôi đã tập hợp lại các bài viết trong mụcNam âm thi thoại của mình, cho xuất bản dưới tên mới Chương Dân thi thoại, quyển sách đầu tiên trong đời ông.
Theo Phan Cừ và Phan An (sđd.), sau khi bán tờ Sông Hương, Phan Khôi vào lại Sài Gòn, chủ yếu dạy học tại trường tư thục Chấn Thanh mà chủ nhân là một người Quảng Nam, trường này chuyển về Đà Nẵng vào cuối năm 1941, Phan Khôi về sống ở làng Bảo An quê nhà.
Suốt thời gian đó (1937-1941), Phan Khôi vẫn viết báo, thậm chí vẫn theo đuổi những tranh biện với đồng nghiệp ở các nơi; nhưng tìm cho hết những tờ báo mà ông cộng tác, tìm cho được những bài báo đã đăng của ông vào thời gian này, ‒ là việc rất khó cho người nghiên cứu sưu tầm. Dưới đây là một số kết quả tìm tòi đã biết:
Trong năm 1936, khi đang chuẩn bị ra tờ Sông Hương, Phan Khôi cộng tác với Hà Nội báo (chủ nhiệm Lê Cường, chủ bút Lê Tràng Kiều), góp những bài về sử (Một me tây thuở Gia Long – Minh Mạnh, s. 17, 29.4.1936), về ngôn ngữ (Về sự thay đổi mấy vần quốc ngữ, s. 19, 13.5.1936), về nghề làm báo (Cái ác ý bởi nghề nghiệp, s. 23, 10.6.1936), về thể loại (Thơ tình trong kinh điển, s. 20, 20.5.1936;Văn học tiểu thuyết là cái quái gì? s. 21, 27.5.1936) hoặc nhân vật (Cái chỗ buồn cười của ông Lương Khải Siêu, s. 26, 1.7.1936)…
Trong năm 1937-38, Phan Khôi cộng tác với Đông Dương tạp chí(tục bản, Nguyễn Giang chủ nhiệm, Vũ Trọng Phụng là thư ký tòa soạn phần chữ Việt), có bài đăng liên tục từ số 24 (23.10.1937) đến những số cuối cùng, trong đó đáng kể nhất là những bài ông bàn vềNhà nho và dân chủ (s. 33, 25.12.1937), Nhà nho với quân chủ (s. 36, 20.1.1938), về các nhân vật Trung Hoa như Cô Hồng Minh (s. 24, 23.10.1937), Tôn Văn (s. 25, 30.10.1937), nữ tác gia Hoàng Lư Ẩn (s. 27, 13.11.1937), luận về địa vị văn học Trung Hoa trên đàn văn thế giới (s. 28, 20.11.1937), về các nhân vật Việt Nam (Hạng “lương dân” của Phan Châu Trinh hay là từ Nguyễn Thuật, Hồ Lệ đến Bùi Bằng Đoàn, s. 30, 4.12.1937; Nội các với ngự tiền văn phòng, s. 32, 18.12.1937; Cái tâm lý người tù chính trị được tha, s. 37, 27.1.1938), đáp lại nhà báo Phạm Mạnh Phan về chuyện nếu Phan Khôi là “học phiệt” (s. 31, 11.12.1937), v.v…
Trong các tháng 7&8.1938, Phan Khôi cộng tác với báo Thời vụ (Hà Nội, chủ nhiệm Phạm Toàn, chủ bút Nguyễn Đức Bính) có đăng một số bài: Không có công dân giáo dục, sẽ không thể thi hành chính thể đại nghị (s.42, 5.7.1938), Từ ngõ chợ Khâm Thiên đến Việt Nam tự trị(s. 44, 12.7.1938), Giữa chánh phủ và nhân dân…(s. 51, 5.8.1938),Sẽlàm gì, ngạch nông quan? (s. 54, 16.8.1938)…
Trong các tháng 8&9.1938 ông cộng tác với tuần báo Dư luận (Hà Nội, chủ nhiệm Đỗ Xuân Mai, chủ bút Phùng Bảo Thạch), có các bài đăng báo như Cụ Phan Sào Nam và Nhật Bản (1.8.1838), Ésope tức là Doãn Hỷ? (8.8, 15.8.1938), Học sinh với quốc sự (29.8.1938), Một bài phú giá hai ngàn lượng bạc (5.9.1938), Thanh niên với hòa bình(12.9.1938)…
Trong năm 1939, ông có bài đăng khá đều đặn trên tạp chí Tao đàncủa Nhà xuất bản Tân dân (chủ nhiệm Vũ Đình Long, chủ bút Lan Khai): Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta (s.1, 1.3 ; s.2, 16.3.1939), Người Việt Nam và óc khoa học (s. 3, 1.4.1939), Tục ngữ phong dao và địa vị của nó trong văn học (s. 9&10, 16.7 ; s. 11, 16.8.1939), Tôi với thi sĩ Tản Đà (s. 9&10), Khổng Tử chẳng duy vật mà cũng chẳng duy tâm (s.12, 16.9.1939), Vận ngữ với thơ (s.13, 16.10.1939).
Cũng trong năm 1939, ông cho in tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra trên Phổ thông bán nguyệt san (s. 41, 16.8.1939) của nhà xuất bản Tân dân.
Trên đây ta chỉ thấy các báo ở Hà Nội mà Phan Khôi cộng tác từ sau khi rời thành phố Huế. Nhưng ta biết là thời gian từ cuối 1937 trở đi, Phan Khôi sống chủ yếu ở Sài Gòn. Vậy ông có viết cho tờ báo nào tại đây? Sơ bộ tìm hiểu thì tôi thấy, ông hầu như không viết cho những tờ báo của những chủ báo mà ông từng cộng tác (ví dụ tờCông luận của Diệp Văn Kỳ), nhưng ông thường viết cho những tờ đang do Bùi Thế Mỹ (1904-43) chủ trì. Đây là một người bà con với ông, từng gắn bó khá sớm với ông trong nghề báo.
Suốt thời gian tờ Điện tín do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (1935-39), Phan Khôi chỉ gửi đăng một “thi thoại” cho số Tết 1936. Nhưng khi họ Bùi chuyển sang làm chủ bút Dân báo (Sài Gòn), Phan Khôi đã cộng tác tích cực hơn nhiều. Ông ký họ tên thật trong những bài tranh luận với báo Điện tín ở Sài Gòn, với tác giả Trúc Khê và báoNước Nam ở Hà Nội, với báo Tiếng dân ở Huế. Ông cũng tiếp tục sử dụng lại bút danh Thông Reo cho chuyên mục Chuyện hàng ngày, và chỉ khi báo Tiếng dân ở Huế một lần nữa lộ cho độc giả biết bút danh này là của Phan Khôi, ông mới đổi sang bút danh mới Hy Tô. Mục Chuyện hàng ngày được ông duy trì đến cuối tháng 9.1942. Đây có lẽ cũng là dấu mốc cuối cùng về bài đăng báo của ông thời kỳ trước tháng Tám 1945.
Tháng 10.1945, Phan Khôi được mời từ Quảng Nam ra Hà Nội; chưa rõ từ đó đến khi đi ra vùng kháng chiến ở Việt Bắc, tháng 12.1946, ông có viết cho báo chí nào ở Hà Nội hay không.
Thời gian ở Việt Bắc (1947-54), ông tập trung vào hai loại công việc: nghiên cứu tiếng Việt và dịch thuật. Trong số các bài viết về tiếng Việt, bài Một phương pháp dạy văn pháp tiếng ta từng được trình bày tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần II (tháng 7.1948) và in trong kỷ yếu của hội nghị này; ba bài khác (Phân tích vần quốc ngữ, Một vài nhận xét trong tiếng ta theo chữ Nôm, Tiếng đệm) được Hội văn hóa Việt Nam cho in li-tô năm 1949; tám bài viết khác, vào năm 1950 được Hội văn hóa Việt Nam cho in thành cuốn sách Tìm tòi trong tiếng Việt.
Ông chủ yếu cộng tác với tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam, mỗi năm đăng một vài bài, ví dụ năm 1948 đăng Thơ tặng một vệ quốc quân (s. 7, tháng 12), Vì sao tôi viết tiểu thuyết (dịch của Lỗ Tấn, s. 3, tháng 6&7); năm 1949: Chúc phước (dịch của Lỗ Tấn, s. 8&9, tháng 1&2), Tìm tòi trong tiếng Việt I (s. 15&16, tháng 9&10); năm 1950: Tìm tòi trong tiếng Việt II (s.19, tháng giêng) giới thiệu tiểu thuyết Thời gian, tiến lên của V. Katayev (s. 22, tháng 4), Giới thiệu thơ Trung Hoa hiện đại (s. 24, tháng 6), Đọc cuốn Sử cách mạng cận đại Việt Nam của Trần Huy Liệu (s. 25, tháng 8), Phát biểu tranh luận sân khấu (s. 26, tháng 9); năm 1953: Một vị học giả mác-xít thiên tài (viết về Stalin, s. 40, tháng 3); năm 1954: Phấn đấu để sáng tạo những tác phẩm văn học ngày càng hay hơn… (dịch của Chu Dương, s. 44, tháng 2). Trong giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1951-1952, Phan Khôi được trao giải về tất cả các bản dịch thực hiện trong thời gian này. Tại Việt Bắc thời kháng chiến, Phan Khôi xuất bản được 3 cuốn sách mỏng: Tìm tòi trong tiếng Việt(1950), Chủ nghĩa Mác và ngôn ngữ học (dịch của Stalin, 1951), Thù làng (truyện, dịch của Mã Phong, 1952).
Trở về Hà Nội sau hòa bình lập lại, Phan Khôi cũng tập trung vào dịch thuật, trước hết là các tác phẩm của Lỗ Tấn. Ông cho xuất bản một loạt cuốn sách: Ánh lửa đằng trước (dịch truyện của Lưu Bạch Vũ, 1954), Việt ngữ nghiên cứu (1955),Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn(dịch, 1955), Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn (dịch, 1956), Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn, tập II (dịch, 1957).
Trong dịp kỷ niệm 20 năm mất văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn (1881-1936), Phan Khôi có một loạt bài nói và viết: Lỗ Tấn, một đại văn hào của Trung Quốc và thế giới (Nhân dân, 28.8.1955), Sự đấu tranh về văn học của Lỗ Tấn (Văn nghệ, s. 92, 27.10.1955), Đời sống và sự nghiệp văn học của Lỗ Tấn (bài nói tại lễ kỷ niệm Lỗ Tấn tại Hà Nội, 30.10.1955), Phát biểu tại lễ kỷ niệm 20 năm mất Lỗ Tấn tổ chức tại Bắc Kinh (đăng báo Văn nghệ, s. 145, 2.11.1956). (18)
Trên các đề tài khác, Phan Khôi có bài giới thiệu Lý Cơ Vĩnh, người được xem là sáng lập văn học hiện đại Triều Tiên, nhân 60 năm sinh nhà văn này (Văn nghệ, s. 74, 10.6.1955); ông hưởng ứng đề tài đấu tranh thống nhất bằng những bài về Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho chân chính miền Nam (Văn nghệ, s. 132, 2.8 và s. 133, 9.8.1956), bằng các bài tạp văn trong chuyên mục trào phúng Mũi nhọn ký bút danh Tơ-hông-re-o (Văn nghệ, s. 132, 2.8 ; s.135, 23.8 ; s.136, 30.8.1956).
Thời kỳ 1954-58, ngoài các báo của nhà nước và các đoàn thể từ vùng kháng chiến chuyển về, ở Hà Nội còn có khá nhiều báo chí tư nhân và nhà xuất bản tư nhân. Sau lớp nghiên cứu lý luận văn nghệ do Hội Văn nghệ Viêt Nam mở (từ 1 đến 18.8.1956), Phan Khôi cũng như không ít văn nghệ sĩ khác đã mạnh dạn lên tiếng góp ý với lãnh đạo (thường mới chỉ là lãnh đạo các ngành, trước hết là ngành văn nghệ) về một số khuyết điểm trong công tác quản lý; không chỉ viết trên các báo nhà nước và đoàn thể, họ còn viết và đăng trên các ấn phẩm tư nhân. Bài báo Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi (Giai phẩm mùa thu tập I, Minh Đức xuất bản, Hà Nội, 29.8.1956, tr. 3-16) nói về những bất cập trong việc xét giải thưởng văn học 1954-55 của Hội Văn nghệ Việt Nam, đã gây ra những thảo luận trong giới văn nghệ. Ông cũng góp một bài Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng cho tập sách Vũ Trọng Phụng với chúng ta (1956) của nhà xuất bản Minh Đức. Ông có các bài ngắn trên các tập giai phẩm của Minh Đức: Ông bình vôi (Giai phẩm mùa thu, tập II, 30.9.1956), ba bài thơ Hồng gai, Hớt tóc trong bệnh viện quân y, Nắng chiều (Giai phẩm mùa thu tập III, 30.10.1956), dịch thơ Lý Bạch (Sách Tết 1957).
Tháng 9.1956, Phan Khôi nhận lời đứng làm chủ nhiệm tờ tuần báoNhân văn của một nhóm văn nghệ sĩ; ông chỉ đăng một bài Trả lời một nhà báo ở Sài Gòn (s. 1, 20.9.1956) trên báo này và hầu như không làm công việc tòa soạn, một phần vì bận với chuyến đi Trung Quốc dự kỷ niệm Lỗ Tấn, nhưng Phan Khôi không hề thoái thác trách nhiệm của mình trước sự lên án của dư luận chính thống suốt thời gian tờ báo còn hoạt động và ngay cả sau khi tờ báo bị cấm (từ 15.12.1956).
Đầu năm 1957, Phan Khôi tham dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (từ 20 đến 28.2.1957), tham gia Hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam (từ ngày 1 đến 4.4.1957), được kết nạp làm hội viên của Hội, tham gia các cuộc thảo luận về thơ do tuần báo Văn (Hội nhà văn VN) tổ chức. Ông cũng cộng tác với Tạp chí Văn nghệ (từ đây thuộc Hội Liên hiệp văn học và nghệ thuật Việt Nam) mà bài đăng sau cùng của ông là bản dịch tạp văn Lỗ Tấn nhan đề Chúng ta không bị lừa lần nữa đâu (Tạp chí Văn nghệ, s. 6, tháng 11.1957). Tác phẩm ông đăng báo cuối cùng trong sinh thời có lẽ là truyện ngắn Ông Năm Chuột (Văn, s. 36, 10.1.1958).
Sau các đợt học tập đấu tranh chống Nhân văn-Giai phẩm do Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng LĐVN mở cho văn nghệ sĩ (đầu năm 1958), các hội văn học nghệ thuật được chấn chỉnh lại; theo tinh thần ấy, BCH Hội Nhà văn VN tại hội nghị lần thứ tư, ngày 2&3.7.1958, đã quyết định khai trừ vĩnh viễn Phan Khôi (cùng Thụy An, Trương Tửu) ra khỏi Hội.
Sáu tháng sau, ngày 16.1.1959, Phan Khôi qua đời tại nhà riêng ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội.


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons