Thứ Năm, 2 tháng 6, 2016

Nhà tư sản Đỗ Đình Thiện: Hàng nghìn lượng vàng, đồn điền, nhà máy in tiền hiến cho cách mạng

Đây là một gia đình “đặc biệt” ở nước ta. Sở dĩ nói là đặc biệt vì vừa là cộng sản, vừa là tư sản “kếch sù”, đã hiến dâng hầu như toàn bộ tài sản của mình cho cách mạng, mà Bác Hồ đã từng nói: “gia đình ấy với mình chỉ là một” (1).
Ông Đỗ Đình Thiện cùng gia đình tại chiến khu Việt Bắc.
Đây cũng là một trong hai gia đình tư sản duy nhất ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước trao Huân chương bậc cao cho cả chồng là ông Đỗ Đình Thiện – Huân chương Hồ Chí Minh, lẫn vợ là bà Trịnh Thị Điền – Huân chương Độc lập hạng nhất(2), một gia đình mà Lịch sử Mặt trận Việt Minh  dân tộc Thống nhất VN giai đoạn 1930-1954 trình bầy khá đậm.
Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi nay thuộc Cổ Nhuế -Từ Liêm - Hà Nội. Ông là con út của một gia đình bốn anh em. Bố ông làm Thư ký cho một Chủ đồn điền cao su nhưng mất sớm. Được mẹ nuôi dưỡng, lúc đầu ông học chữ Nho, sau chuyển sang chữ Quốc ngữ. Do thông minh và chăm học, ông thường đỗ đầu trong các kỳ thi. Năm 1926 do tham gia phong trào bãi khóa để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh nên bị đuổi học và gia đình phải làm lại giấy khai sinh để đưa ông xuống học ở Nam Định.
Năm 1927 gia đình cho ông sang Pháp du học. Ông vào học tại trường đại học canh nông ở Toulouse. Ở đây, năm 1928 ông gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Cuối năm 1931, do chuyển tài liệu bí mật của Đảng cho các thủy thủ người Việt mang về theo Đảng Cộng sản Đông Dương, ông bị bắt, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về Việt Nam.
Trở về nước ông kết hôn với bà Trịnh Thị Điền, một nữ cộng sản tiền bối do đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai dìu dắt và kết nạp, đây chính là người yêu đầu đời mà hai người đã từng hẹn ước trước khi lên đường du học.
Tháng 2/1931 bà bị mật thám bắt. Dù bị tra tấn hết sức dã man, bà vẫn không hề nhận mình là người cách mạng. Bà tuyệt thực suốt 7 ngày để phản đối sự tra tấn đối với phụ nữ, buộc chúng phải đưa bà về bệnh viện Phủ Doãn để điều trị. Tìm mãi không đủ chứng cứ để buộc tội, bọn thực dân Pháp phải trả lại tự do cho bà.
Ra tù, bà lại tiếp tục hoạt động. Bà lo tiếp tế lương thực, thuốc men, tiền, giấy bút cho các đồng chí mình bị giam ở Hỏa Lò, bí mật gửi cưa sắt để các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Văn Tạo cưa chấn song sắt vượt ngục vào đêm Noel năm 1931.
Tuy được tha nhưng bà vẫn bị quản thúc và bị mật thám theo dõi chặt chẽ. Trong hoàn cảnh đó, Trung ương đồng ý để hai ông bà chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực kinh tế để vừa nuôi sống gia đình mình, vừa để ủng hộ cách mạng khi thời cơ tới.
Là những người có học vấn cao thời đó, lại sinh trưởng trong các gia đình danh giá, có truyền thống buôn bán, ông Đỗ Đình Thiện chung vốn với bạn bè làm nghề buôn gỗ, còn bà Điền nhận tơ tằm của thương nhân người Hoa để bán kiếm lời. Do biết cách làm ăn, làm ăn đứng đắn nên được cả người bán và người mua tín nhiệm, bà mở hiệu buôn tơ tại 54 phố Hàng Gai.
Làm ăn phát đạt, năm 1941 ông bà Thiện mua lại nhà máy dệt của ông Hương Ký – một tư sản nổi tiếng lúc đó ở Hà Nội, nhằm tạo ra những sản phẩm có giá thành thấp, chất lượng tốt để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
Sau này, bà Đỗ Đình Thiện kể: “Từ nhà tù Sơn La vượt ngục trở về, anh Cả Nguyễn Lương Bằng qua đường liên lạc bí mật, đã bố trí gặp vợ chồng tôi tại một cơ sở bí mật ở Chèm Vẽ. Anh Cả rất mừng thấy chúng tôi làm ăn phát đạt và thay mặt Đảng giao trách nhiệm cho chúng tôi nhiệm vụ đảm bảo tài chính cho Đảng.
Nhận nhiệm vụ Đảng giao, vợ chồng tôi càng quyết tâm mua đồn điền Chi-nê với ý định sẽ chuyển nhà máy dệt về đây và nếu chiến tranh xảy ra sẽ là nơi che giấu cán bộ cách mạng.
Lần thứ hai anh Cả Nguyễn Lương Bằng gặp tôi qua đồng chí Vũ Đình Huỳnh. Anh giả vờ làm người buôn tơ đến thẳng cửa hàng 54 Hàng Giai và tôi đã chuyển cho Đảng số tiền ba vạn đồng Đông Dương(3).”
Về sự kiện này, năm 1970 khi tiếp ông bà Thiện tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh nhắc lại: “Khi nhận được số tiền ba vạn đồng, anh chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng”.
Cũng theo lời kể của bà: “Đầu năm 1945 với tư cách Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác tài chính, đồng chí Nguyễn Lương Bằng lại viết thư gửi vợ chồng tôi: “Đảng rất cần tiền, nếu có xin gửi ngay”.
Tôi đã viết giấy đưa anh Vũ Đình Huỳnh đến một hãng buôn người Hoa – bạn hàng thân tín của tôi, nhận 100 nghìn (một trăm nghìn) Đồng Dương chuyển cho quỹ Đảng”.
Năm 1945, với chủ trương độngviên toàn dân xây dựng nền tài chính quốc gia, Chính phủ đã lập quỹ mang tên “Quỹ Độc lập” để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn sàng ủng hộ giúp Chính phủ củng cố nền độc lập quốc gia. Nổi bật của phong trào gây Quỹ là “Tuần lễ vàng”. Ông Đỗ Đình Thiện được Chính phủ cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương. Là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trọng trách, ông bà Thiện đã vận động nhân dân, đặc biệt là giới công thương tích cực đóng góp vào Quỹ Độc lập và “Tuần lễ vàng”. Bản thân ông bà ngay trong ngày khai mạc đã đóng góp 100 nghìn Đông Dương và 100 lạng vàng. Ngày bế mạc “Tuần lễ vàng 22-9-1945 ban tổ chức bán đấu giá bức tranh vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông bà Thiện đã chủ động trả một triệu đồng Đông Dương (bằng hai nghìn lạng vàng) để mua bức tranh trên. Sau khi mua được ông bà đã tặng cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Nghĩa cử cao đẹp đó đã được Lịch sử Mặt trận, lịch sử Bộ Tài chính, Ban Quản trị - tài chính Trung ương ghi nhận như sự thể hiện niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngôi nhà 54 Hàng Gai trở thành một trong những Nhà khách của Chính phủ. Hồi ký của nhiều đồng chí lãnh đạo và cán bộ cao cấp của Đảng như: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai… đã nhắc đến địa chỉ  này.
Đây cũng là nơi Bác Hồ tiếp phái đoàn Nam Bộ, đoàn phụ nữ Nam Bộ, tiếp cụ Huỳnh Thúc Kháng và cựu Hoàng đế Bảo Đại, hoàng thân Xu-ha-nu-vông…
Là trí thức được đào tạo tại Pháp, lại có tài quản lý, kinh doanh, ông Đỗ Đình Thiện được Nhà nước cử làm thành viên Hội đồng quản trị đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông bà cũng dành Nhà in Tô-panh của mình để Chính phủ in tiền.
Năm1946, Hồ Chủ tịch đi thăm Pháp. Ông Thiện và ông Vũ Đình Huỳnh được Bác Hồ chọn làm Thư ký riêng của Bác trong suốt thời gian ở Pháp. Chuyến đi lịch sử đó đã được ông ghi thành “Nhật ký làm việc” của Hồ Chủ tịch 4 tháng ở Pháp (22/6/1946/ 4/9/1946). Ông đã tặng lại bản viết tay đó cho Nhà nước và hiện được lưu giữ tại Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Tháng 11/1946, tình hình Hà Nội ngày càng căng thẳng, để bảo vệ việc in tiền, đồng chí Phạm Văn Đồng ra lệnh tháo dỡ, vận chuyển toàn bộ máy móc của nhà máy di chuyển lên đồng điền Chi-nê.
Để đảm bảo cho nhà máy lắp ráp đúng kỹ thuật và sớm đi vào ổn định, ông Thiện đưa cả gia đình lên đồn điền Chi-ne. Và khi nhà máy đi vào sản xuất, ông bà lại ba lô trèo đèo, lội suối cùng anh em công nhân lên chiến khu Việt Bắc để xây dựng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo – đứa con đầu lòng của ngành cơ khí Việt Nam. Và chính ông Thiện được cử làm giám đốc.
Với những đóng góp to lớn cho cách mạng, năm 1950 ông bà Thiện được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Đây là một trong hai trường hợp vào thời điểm đó cả hai vợ chồng đều được thưởng Huân chương và do Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân trao tặng.
Năm 1991 Bà Trịnh Thị Điền được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Năm 2008 ông Đỗ Đình Thiện được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh. Cả hai đều được tặng Kỷ niệm chương “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Đối với sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, ông Thiện liên tục là thành viên của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông được truy tặng Huân chương Đại Đoàn Kết.  
  Nguyễn Túc


                                https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRK8h0AvSahyS5OOzbxx4sbbTZqHTSsVr14ErC_O8sbyDsvev6-exbcIttHVtWtLXimYIFjwk6RgbbNlypJFkskghj8Na6Fm8FkppZayc6PUB4GOBdxySYacX6FZtYHLljThcs80QwiDA/s400/images.jpg

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Bố tôi làm đốc lý

Đầu năm 1945, dưới thời Chính phủ Trần Trọng Kim, theo đề nghị của nhiều trí thức tiến bộ, bố tôi- nhà giáo Nguyễn Lân, đã nhận lời làm Đốc lý thành phố Huế. Trước đó chức vụ này đều do người Pháp đảm nhiệm. Vừa qua, ông Dương Phước Thụ đã đăng trên báo Sông Hương bài viết: Giáo sư Nguyễn Lân- Đốc lý người Việt đầu tiên của thành phố Huế. 
Tìm được tài liệu từ  Việt Nam tân báo, ông Dương Phước Thu đã đăng lại Lời tuyên bố của ông Đốc lý thành phố Thuận Hóa ngày 28/5/1945.
Thật thú vị , sau 71 năm đọc lại lời tuyên bố này tôi rất cảm động khi thấy bố tôi ngay từ thời ấy đã có tư duy Đổi mới khá đáng nể trọng. Sáng ngày 21/2/2016 nhân dịp gặp mặt thân mật với đồng chí Hoàng Trung Hải, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư thành phố Hà Nội, chúng tôi đã trao tặng lại tờ tạp chí Sông Hương (số 312 , tháng 2/2016) có đăng trên 4 trang bài báo này.
Xin trích giới thiệu “Bản chương trình tối thiểu” trong Lời tuyên bố của Đốc lý Nguyễn Lân để bà con tham khảo:
1. Tẩy trừ các dấu vết của người Pháp: đổi tên các đường phố, sửa lại đài trận vong các tướng sĩ thành phố thành một đài kỷ niệm ngày tuyên bố độc lập;
2. Bài trừ nạn cờ bạc: trong lúc này dù là đàn ông hay đàn bà, dù ở bất cứ địa vị nào mà tụm năm tụm ba say mê với con bài lá bạc thì sẽ bị bắt giải toà và sẽ bị nghiêm trị;
3. Bài trừ nạn chợ đen;
4. Bài trừ nạn ăn mày: sẽ cộng tác với Hội đồng Cứu tế trung ương làm những nhà dục anh và tế bần, để bắt kẻ nghèo học nghề và làm việc;
5. Bài trừ nạn hối lộ: người nào định đút lót kẻ thừa hành chức vụ cũng như những kẻ ăn tiền hối lộ đều bị giải toà, kết án rất nặng;
6. Tổ chức lại ngạch cảnh sát để giữ gìn trật tự;
7. Chăm lo việc vệ sinh chung: đặt chỗ đổ rác; sửa các cống, rãnh, cấm phóng uế ở vệ đường, ở bờ sông và ở các hầm trú ẩn , những kẻ tầm bậy sẽ bị phạt tiền, và nếu tái phạm sẽ bị đeo biển dẫn đi qua các phố;
8. Sửa lại đường sá, tuỳ theo ngân sách;
9. Đặt một Hội đồng thành phố gồm có những người nhiệt tâm ở các giới;
10. Phân phát các thực phẩm cho công bằng; người nào khai gian thẻ hạn chế khẩu lương sẽ bị giải toà kết án thực nặng;
11. Kiểm soát việc đánh thuế chợ cho công bằng;
12. Tổ chức lại các phạn điếm bình dân;
13. Nhờ các bạn thanh niên dùng thì giờ rảnh làm các việc công ích; đào lỗ trú ẩn từng người; trồng khoai sắn ở hai bờ sông và ở các đất hoang để nuôi kẻ nghèo, đi khất thực giúp ban cứu tế; làm đồ thủ công bán lấy tiền giúp kẻ nghèo;
14. Kiểm soát việc đo lường trong thành phố cho được công bằng và khuyên nhân dân nên theo mét hệ;
15. Tổ chức lại việc phòng thủ thụ động.
Những công việc ấy, bản chức sẽ tuỳ theo quyền hạn mà cố gắng làm cho đầy đủ. Nhưng có kết quả hay không cũng nhờ ở tấm lòng thành thực và sốt sắng của dân thành phố đối với việc công.
Không lúc nào bằng lúc này, nhà cầm quyền và nhân dân phải đứng vào công tác; không lúc nào bằng lúc này, ta phải khuyên nhau: hăng hái làm việc và tuân theo kỷ luật !
Riêng phần bản chức, bản chức sẽ lấy câu sau này của Đức Trần Hưng Đạo làm câu châm ngôn cho việc cai trị: “Phép nước không nể tình thân!”
Đó là tháng 5 năm 1945, khi bố tôi mới vừa tròn 39 tuổi.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, bố tôi đã bàn giao cho chính quyền mới Toà Đốc lý với toàn bộ tài sản và toàn bộ ngân sách, không thiếu một đồng. Chính quyền Cách Mạng đã mời bố tôi ngay lập tức đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Học chính Trung bộ. Năm 1946 ra Hà Nội và bắt đầu lên Việt Bắc tham gia công tác Giám đốc Giáo dục Liên khu X, hoàn thành trách nhiệm này Bố tôi đã  được nhận bằng khen (số 162 SV ngày 25/1/1949) của Hồ Chủ tịch với lời phê là Một Giám đốc có tài. Trước đó vào tháng 1/1948 bố tôi còn được Bác Hồ tự tay đánh máy một Thư khen cùng với phần thưởng là một bộ quần áo lụa bên trong có thêu dòng chữ: Chúng cháu kính dâng Bác Hồ (hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Bố tôi qua đời ngày 7/8/2003, hưởng thọ 98 tuổi và được yên nghỉ cùng mẹ tôi tại quê nhà (xã Phùng Chí Kiên, Mỹ Hào, Hưng Yên).
GS Nguyễn Lân Dũng


                                https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRK8h0AvSahyS5OOzbxx4sbbTZqHTSsVr14ErC_O8sbyDsvev6-exbcIttHVtWtLXimYIFjwk6RgbbNlypJFkskghj8Na6Fm8FkppZayc6PUB4GOBdxySYacX6FZtYHLljThcs80QwiDA/s400/images.jpg

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

Điều kỳ bí quanh những tấm mộc bản

Mộc bản của 2 chùa ở Bắc Giang là Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, H.Yên Dũng) và Bổ Đà (xã Tiên Sơn, H.Việt Yên) ẩn chứa nhiều câu chú dùng để cầu siêu thoát cho người đã mất mà ít người dân địa phương biết được.
Mộc bản chùa Bổ Đà
 /// Ngữ Yên


Khi PGS-TS Lê Thị Minh Lý, nguyên Phó cục trưởng Cục Di sản văn hóa, Bộ VH-TT-DL, nói chuyện với những người bán nước ở cổng chùa Bổ Đà, họ gần như không biết gì về bộ kinh quý đang được lưu giữ trong chùa này. “Nếu như chính những người ở ngay cộng đồng quanh đó không biết đến di sản thì làm sao di sản có thể phát huy giá trị được”, bà nói. Trong khi đó, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới ở châu Á - Thái Bình Dương.
Những mật chú cầu siêu


Thạc sĩ Nguyễn Thu Thủy (Khoa Du lịch học, ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia Hà Nội) đề xuất với vị trí ở Bắc Giang, hoàn toàn có thể kết nối một tour trải nghiệm về in ấn mộc bản với Đông Hồ, Bắc Ninh. Nó sẽ gồm các hoạt động cốt lõi như giới thiệu công đoạn sáng tạo mộc bản tại Vĩnh Nghiêm và Bổ Đà, nghe chuyện về mộc bản và kỹ thuật mộc bản; tham quan làng tranh Đông Hồ, hướng dẫn và thực hành vẽ hình lên mặt gỗ, khắc bản in mộc, in tranh.

Nếu như mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là bộ kinh còn lại của phái Trúc Lâm Yên Tử thì mộc bản Bổ Đà lại là bộ kinh còn lại của dòng thiền Lâm Tế. Tuy nhiên, chúng rất giống nhau vì đều hé lộ những phong tục trước đây. Cụ thể, theo TS Phạm Văn Tuấn (Viện Hán Nôm), một số trang mộc bản chùa Bổ Đà lưu những câu chú được dùng để cầu siêu thoát cho người đã mất. Người xưa in những câu này trên 6 miếng vải hoặc giấy để dán trên 6 tấm gỗ của quan tài hay bỏ vào trong quan tài.
PGS-TS Nguyễn Quốc Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu tôn giáo, cũng cho biết mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm có những câu mật chú để cầu siêu. Đây là những mật chú cần có để người mất biết tìm đường về chốn cực lạc. Người dân cũng có nhu cầu về những câu mật chú như vậy. “Họ dùng mộc bản in ra và dẫn vong. Những người đội dải lụa, mà vẫn gọi là đội cầu để dẫn vong sẽ dán cái đó lên dải lụa, sau đó thì đốt. Tôn giáo lo cho con người từ lúc sinh ra đến lúc cuối đời, mất đi là như thế”, ông Tuấn nói. Hiện tại, người dân vẫn có nhu cầu về những câu mật chú đó, phải đến chùa xin.
Bên cạnh đó, theo ông Tuấn, trên mộc bản ở chùa Bổ Đà còn có các hình khắc Đức Phật Tổ Như Lai, Phật Thích Ca tọa trên đài sen, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị La Hán... Các họa tiết này mang lại giá trị thẩm mỹ cao, nét đẹp hài hòa giữa chữ và tranh, góp phần làm tăng thêm ý nghĩa Phật giáo và có tác động trực diện đến việc truyền thụ, tiếp nhận Phật giáo. Theo TS Nguyễn Sử (Viện Nghiên cứu tôn giáo), những hình khắc này khi in ra cũng rất đẹp và gần gũi với người dân.
GS-TS Vũ Đức Nghiệu (ĐH KHXH-NV, ĐH Quốc gia Hà Nội) cho biết trong mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm có những nội dung khuyến thiện, giới hạn cái ác như bản khắc sách Kính tín lục được in phổ biến trong dân gian để làm phúc. Ở cuối sách là phụ lục 4 phương thuốc: Quyên tử đọa thai dị báo, Cứu cấp ngũ tuyệt lương phương, An thai thôi sinh phương, Bất xuất thiên hoa kinh nghiệm kỳ phương. 4 phương thuốc này được đưa vào phụ lục sách để truyền bá kinh nghiệm nhằm cứu người. Sách Kính tín lục không phải sách y học nhưng có một số nội dung về y học.
Điều kỳ bí quanh những tấm mộc bản - ảnh 1
Chùa Vĩnh NghiêmNGỌC THẮNG
Để người dân tự chạm mẫu mộc bản
“Làm sao người ta có thể thấy mộc bản gần gũi khi hoàn toàn không đọc được những gì viết trên đó”, bà Lý nêu câu hỏi. Đúng là người dân đang thấy mình xa lạ với những câu chữ trên mộc bản do không hiểu điều gì viết trên đó. Tuy nhiên, theo bà Lý, nếu kể cho họ về quá khứ thì câu chuyện sẽ gần gũi hơn. Chẳng hạn, người dân sẽ rất muốn xem cả quá trình mộc bản đã được đục, được in, được vá khi rơi rụng chữ như thế nào. Từ đó, hoàn toàn có thể xây dựng khu tương tác, để người dân tự chạm mẫu mộc bản theo ý mình rồi mang về. Theo TS Nguyễn Sử, một số nội dung mộc bản hoàn toàn có thể in cho người dân, hoặc làm bản khắc giống hệt để họ tự in.
Việc trải nghiệm ngay trong chùa cũng có thể được xây dựng. Theo PGS-TS Lương Hồng Quang, chùa Bổ Đà lặng lẽ và kín tiếng, giống với một thiền viện hơn một chùa làng. Vì thế, đó là một trải nghiệm rất riêng trong hệ thống các chùa VN. Cũng theo ông Quang, bên cạnh các tour du lịch còn có thể hình thành các lớp tu tập cho tăng đồ trong và ngoài nước tới hai ngôi chùa này.


                                https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgRK8h0AvSahyS5OOzbxx4sbbTZqHTSsVr14ErC_O8sbyDsvev6-exbcIttHVtWtLXimYIFjwk6RgbbNlypJFkskghj8Na6Fm8FkppZayc6PUB4GOBdxySYacX6FZtYHLljThcs80QwiDA/s400/images.jpg

     DIỆN CHẨN SỐNG KHỎE       
           VĂN PHÒNG 0906143408   

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons