Tương truyền rằng, các văn nghệ sĩ sau khi đến Phù Dung Tự, nghề nghiệp của họ càng thêm thăng hoa, mà điển hình là trường hợp nữ nghệ sĩ Thanh Nga.
Hai thế kỷ bị lãng quên
Sau khi bà Ái Cơ Phù Cừ trụ trì Phù Dung Tự mất (1761), rồi Mạc Tổng trấn cũng qua đời trong đao binh (1780), sự nghiệp của họ Mạc dần tiêu tan, con cháu của Mạc Thiên Tích ly tán, nhiều người chết trong chiến tranh. Đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua với niên hiệu Gia Long mở đầu một triều đại mới (năm 1802), họ Mạc ở Hà Tiên được triều Nguyễn ghi công, nhưng các thế hệ họ Mạc sau đó không để lại dấu ấn gì sâu đậm trong lịch sử Hà Tiên. Rồi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chiến tranh lại nối tiếp chiến tranh trên vùng đất này, câu chuyện họ Mạc khai mở đất Hà Tiên, cùng với đó là Tao đàn Chiêu Anh Các và thiên tình sử liên quan tới ngôi chùa Phù Dung cũng dần bị lãng quên trong đời sống người dân.
Mãi đến cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, khi nhà văn Sơn Nam viết “Hà Tiên đất Phương Thành” đăng ở Báo Nhân Loại; rồi nữ sĩ Mộng Tuyết viết “Nàng Ái Cơ trong chậu úp”, thi sĩ Đông Hồ nhắc lại chuyện trong “Văn học Hà Tiên”..., thì lịch sử Hà Tiên và ngôi chùa Phù Dung Tự mới dần “sống” dậy. Các tác phẩm đều kể lại câu chuyện: Nàng Phù Cừ với tài văn và nhan sắc mặn mà đã chinh phục trái tim của ngài tổng trấn, được ông sủng ái hết mực, làm bà chánh thất ghen tức, đem lòng hãm hại.
Một hôm, nhân Mạc Tổng trấn đi duyệt binh vắng, ở nhà, Nguyễn phu nhân đem nhốt thứ cơ vào lòng một cái chậu úp, cho ngột mà chết. Nhưng Mạc Tổng trấn đã kịp trở về để cứu Ái Cơ. Nàng thứ cơ thoát chết, trở nên chán chường sự thế, xin Mạc Tổng trấn cho nàng đi tu. Trước sự tình éo le đó, Mạc Thiên Tích không biết làm sao khác, cũng đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho thứ cơ tu hành. Bên am tự, ông cho đào ao, trồng hoa sen trắng để kỷ niệm mối tình xưa. Ngôi am tự đó về sau trở thành Phù Dung Tự…
Dù còn có những ý kiến khác nhau, thậm chí còn có ý kiến cho rằng, chuyện tình của Mạc Tổng trấn và nàng Ái Cơ Phù Cừ chỉ là hư cấu của những văn sĩ, nhưng hầu hết người dân Hà Tiên và cả Nam Bộ đều thuộc lòng và tin rằng đó là chuyện tình đẹp, có thật, gắn liền với công cuộc khai mở đất Hà Tiên.
Áo cưới trước cổng chùa
Câu chuyện tình lịch sử thấm đẫm văn chương và nước mắt giữa Mạc Tổng trấn và Ái Cơ Phù Cừ từ đó trở đi là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm truyện, tuồng và thơ. Năm 1959, nhà văn, nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà viết vở cải lương "Áo cưới trước cổng chùa" theo tác phẩm “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” của nữ sĩ Mộng Tuyết. Vở tuồng đã thu hút không biết bao nhiêu con tim của khán thính giả thời bấy giờ.
Nhà thơ kiêm soạn giả Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh (SN 1929, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá - nay là Kiên Giang). Ông lấy nghệ danh Kiên Giang, Hà Huy Hà sáng tác thơ và kịch bản cải lương và được xem là thầy của hai soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng. Các vở cải lương của ông được nhiều người biết đến gồm: Người đẹp bán tơ (1956), Con đò Thủ Thiêm (1957), Người vợ không bao giờ cưới (1958), Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, … và nhiều bài tân cổ giao duyên.
Ông có một tác phẩm thơ rất nổi tiếng ở miền Nam vào thập niên 1960 là "Hoa trắng thôi cài trên áo tím" (1962), ngoài ra còn có "Lúa sạ miền Nam" (1970). Sau 1975, Kiên Giang làm Phó đoàn cải lương Thanh Nga, kiêm cán bộ phòng nghệ thuật sân khấu Sở Văn hóa Thông tin TPHCM. Ông từng làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Sân khấu TPHCM qua 3 nhiệm kỳ.
Là người gốc Kiên Giang, đồng hương của Sơn Nam, Đông Hồ, Mộng Tuyết, nhà thơ - soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà rất yêu thích câu chuyện tình giữa Tổng trấn Mạc Thiên Tích và sư nữ chùa Phù Dung. Ông đã xin nữ sĩ Mộng Tuyết được chuyển thể tác phẩm văn học “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” thành vở cải lương với ít nhiều hư cấu và ông đã thành công ngoài mong đợi.
Nên nhớ, vào thời điểm 1960 khi vở “Áo cưới trước cổng chùa” ra đời, sân khấu cải lương đang thống trị các hoạt động giải trí ở miền Nam. Một chuyện tình hay, có thật, được soạn giả là nhà thơ có nghề viết thành vở cải lương với nhiều trường đoạn đậm chất thi ca đã nhanh chóng chinh phục khán giả mộ điệu Sài Gòn và cả miền Nam. Đặc biệt, khi vai nữ chính của vở diễn lại được chính nghệ sĩ Thanh Nga - người vừa đoạt giải Thanh Tâm lần thứ I - đóng càng làm cho vở diễn trở thành hiện tượng văn hóa, góp phần đánh thức vùng đất Hà Tiên ở góc trời Tây Nam.
Nữ nghệ sĩ Thanh Nga. 
Nghệ sĩ Thanh Nga đi chùa Phù Dung
Thanh Nga (1942 - 1978) tên thật Juliette Nguyễn Thị Nga, sinh ngày 31.7.1942, quê ở Tây Ninh. Sinh ra trong gia đình có truyền thống cải lương (mẹ là bà bầu Thơ, trưởng đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga nổi tiếng một thời), Thanh Nga đã nhanh chóng khẳng định tên tuổi của mình trên sân khấu. Chuyện kể rằng, một lần, đoàn Thanh Minh Thanh Nga đi lưu diễn ở Hà Tiên, Thanh Nga (vốn là một Phật tử, có pháp danh Diệu Minh) đã đến viếng chùa Phù Dung Tự và đắm mình trong câu chuyện tình đẫm lệ của người xưa.
Trở về Sài Gòn, năm ấy Thanh Nga là người duy nhất đoạt giải Thanh Tâm danh giá lần đầu tiên (1958) khi cô mới 16 tuổi. Từ đó trở đi, Thanh Nga thật sự trở thành nữ hoàng sân khấu cải lương ở Sài Gòn với nhiều vở diễn để đời trước và sau ngày 30.4.1975.
Bà bị sát hại cùng chồng ngày 26.11.1978 tại nhà riêng ở đường Ngô Tùng Châu, quận 1 (nay là đường Lê Thị Riêng) TP.Hồ Chí Minh, được an táng tại nghĩa trang Chùa Nghệ Sĩ ở quận Gò Vấp. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1984, tên bà được vinh dự đặt cho một con đường (đường Thanh Nga, thuộc khu dân cư Gia Hòa, phường Phước Long B, quận 9, TP.Hồ Chí Minh).
Ngày ấy, một ngày giữa năm 1960, khi nữ nghệ sĩ Thanh Nga xuất hiện trên sân khấu với vai Xuân Tự (sau này là sư nữ chùa Phù Dung), với tính cách cô gái miền biển chân chất, với tâm trạng u buồn của một sư nữ, với lối diễn tinh tế, Thanh Nga đã “hớp hồn” khán giả ngay buổi diễn đầu tiên. Những người mộ điệu cải lương của thập niên 1960 vẫn chưa quên hình ảnh Thanh Nga mặc áo dài lỡ, bới tóc kiểu bánh lái ghe, cổ đeo kiềng bạc, tay bưng quả nếp, hát ngân nga: "Tay bưng quả nếp đi chùa/Thắp nhang lạy Phật xin bùa cầu duyên".
Hình ảnh Xuân Tự với giọng ca không bay bổng mà như xoáy động vào nội tâm, với cách ca, cách phát âm, độc thoại, đối thoại, xứng hợp với từng tình huống đã tạo một gương mặt nghệ sĩ giàu tính năng động và sáng tạo. Khi Xuân Tự - Thanh Nga - đã về dưới mái chùa Phù Dung, giọng hát của cô càng thê thiết: “Áo cưới em treo trước cổng chùa/Tình đầu trao trả lại người xưa/ Đời em như cánh phù dung nhỏ/ Rụng trước cổng chùa trong gió mưa/ Đừng nói yêu đương trước cổng chùa/ Nhắc làm chi nữa mối tình xưa/ Xuân Tự quay lưng vào cửa Phật/ Tô Châu trở bước xuống Đông Hồ/ Áo cưới vẫn treo trước cổng chùa/ Gió bay phất phới chuông chùa ngân/ Hết duyên hết nợ đành thôi thế!/Dù có ly tan chẳng phụ tình!...”.
Vào thời đó, vở cải lương “Áo cưới trước cổng chùa” đã tạo một hiệu ứng xã hội rất độc đáo mà những người làm ra nó cũng không hề nghĩ tới. Đó là, khi vở cải lương “Áo cưới trước cổng chùa” chinh phục bao trái tim người mộ điệu, đã xuất hiện một làn sóng người dân Nam Bộ tìm về thăm ngôi chùa Phù Dung ở Hà Tiên xa xôi và những di tích gắn với ngài Tổng trấn Mạc Thiên Tích.
Kể từ đó, vùng Hà Tiên xa xôi ít người biết tới đã dần trở thành điểm du lịch nổi tiếng đến ngày nay. Công lớn đó tất nhiên là thuộc về những người trong cuộc: Tổng trấn Mạc Thiên Tích và nàng Ái Cơ Phù Cừ. Công lao không nhỏ thuộc về những người đưa câu chuyện tình giữa Mạc Tổng trấn và sư nữ chùa Phù Dung Tự trở thành phổ cập, thành vở diễn hay trên sân khấu cải lương, mà đáng kể nhất phải nhắc đến nữ nghệ sĩ tài năng Thanh Nga.


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317